CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1] (phần 5)

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1] (phần 5)

Bản đồ Biển Đông. Nguồn: Wikipedia


PHỤ LỤC VIII

TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT

ĐIỀU 1. Việc khởi tố

Với điều kiện tuân thủ phần XV, mọi bên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của Công ước liên quan đến: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, hoặc 4- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận chìm, có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đặc biệt được trù định trong Phụ lục này bằng thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp; thông báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các căn cứ của các yêu sách đó.

ĐIỀU 2. Danh sách các chuyên viên

1. Một danh sách chuyên viên được lập ra và được duy trì cho mỗi lĩnh vực sau đây: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, 4- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra.

2. Về mặt đánh bắt hải sản, danh sách chuyên viên do Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc lập ra và duy trì; về mặt bảo vệ và phòng giữ môi trường biển, do Chương trình của Liên hợp quốc về môi trường; về mặt hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra, thì do Tổ chức hàng hải quốc tế hoặc, tuỳ theo mỗi một trường hợp, do cơ quan phụ trợ thích hợp mà Tổ chức, Chương trình hoặc Uỷ ban nói trên đã uỷ quyền thực hiện chức năng này.

3. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định trong một lĩnh vực đó hai chuyên viên có năng lực được xác minh và thừa nhận chung về pháp lý, khoa học hay kỹ thuật trong lĩnh vực nói trên và là những người nổi tiếng công minh, liêm khiết nhất. Trong mỗi lĩnh vực, bản danh sách có tên những người được chỉ định đó.

4. Ở vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng chuyên viên do một quốc gia thành viên chỉ định và thể hiện trên một bản danh sách dưới hai người, thì quốc gia thành viên này có thể tiến hành việc chỉ định bổ sung và họ có quyền.

5. Tên của một chuyên viên được ghi trên bản danh sách cho đến khi bị bên đã chỉ định chuyên viên đó rút đi, dĩ nhiên là chuyên viên này phải tiếp tục thi hành nhiệm vụ của mình trong mọi Toà trọng tài đặc biệt cho đến lúc thủ tục tố tụng trước Toà này đã kết thúc.

ĐIỀU 3. Cơ cấu của Toà trọng tài đặc biệt

Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài đặc biệt được cấu thành như sau:

a. Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài đặc biệt gồm có năm thành viên;

b. Bên nguyên cử hai thành viên được lựa chọn tuỳ ý ở bản danh sách hay các bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này liên quan đến nội dung của vụ tranh chấp, một trong hai người này có thể là công dân của nước đó. Tên của các thành viên được cử như vậy, được ghi trong thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này;

c. Bên bị trong vụ tranh chấp, trong thời hạn 30 ngày tính từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, cử hai thành viên do họ tuỳ ý chọn trên danh sách hay các danh sách liên quan đến nội dung của vụ tranh chấp, và trong hai người đó, một người có thể là công dân của nước ấy. Nếu bên bị không cử người trong thời hạn này, thì bên nguyên có thể trong hai tuần sau khi hết hạn, yêu cầu tiến hành việc cử người theo đúng điểm e;

d. Các bên thoả thuận cử Chánh toà trọng tài đặc biệt được lựa chọn tuỳ ý trên danh sách thích hợp và là công dân của một nước thứ ba, trừ khi các bên có thoả thuận khác. Trong một thời hạn là 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, nếu các bên không thể thoả thuận việc cử Chánh toà, thì việc cử này được tiến hành theo đúng điểm e theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. Yêu cầu đó được gửi đến trong vòng hai tuần sau khi hết thời hạn kể trên;

e. Trừ khi các bên thoả thuận giao phó cho một người hay một quốc gia thứ ba do họ lựa chọn, tiến hành việc cử người, Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành việc cử các uỷ viên cần thiết này trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu theo các điểm c hay d. Việc của người này được tiến hành bằng cách lựa chọn ở trên bản danh sách hay các bản danh sách chuyên viên thích hợp nói ở Điều 2 của Phụ lục này, có trao đổi với các bên tranh chấp và với tổ chức quốc tế thích hợp. Các uỷ viên được cử như vậy phải thuộc quốc tịch khác nhau, không được làm việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không được trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ của một trong số các bên trong vụ tranh chấp và không phải là công dân của một trong các bên này;

f. Mọi ghế bị trống đều được cử người thay theo cách thức được trù định cho lần cử đầu tiên;

g. Các bên cùng đứng về một phía cũng nhau thoả thuận cử hai thành viên của Toà. Khi có nhiều bên đối lập nhau, hay trong trường hợp không thống nhất về điểm liệu các bên có cùng một phía hay không, thì mỗi bên trong số họ cử một thành viên của Toà;

h. Các điểm a đến f được áp dụng để hết mức có thể đối với các vụ tranh chấp có quá hai bên hữu quan trở lên.

ĐIỀU 4. Các quy định chung

Các Điều 4 đến 13 của Phụ lục VII được áp dụng mutatis mutadis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) vào thủ tục trọng tài đặc biệt nói ở trong Phụ lục này.

ĐIỀU 5. Việc xác lập các sự kiện

1. Các bên của một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước về: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, 3- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm môi trường do tàu hay do nhận chìm gây ra, có thể, vào bất cứ lúc nào, thoả thuận yêu cầu một Toà trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Điều 3 của Phụ lục này tiến hành một cuộc điều tra và xác lập các sự kiện từ nguồn gốc của vụ tranh chấp.

2. Trừ khi các bên có thoả thuận khác, những sự kiện do Toà trọng tài đặc biệt xác nhận theo khoản 1 được coi là những chứng cứ đã được xác minh giữa các bên hữu quan.

3. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp yêu cầu thì Toà trọng tài đặc biệt có thể thảo ra các khuyến nghị; những khuyến nghị này không có giá trị quyết định mà chỉ là cơ sở để các bên tiến hành xem xét lại những vấn đề làm phát sinh ra tranh chấp.

4. Với điều kiện tuân thủ khoản 2, Toà trọng tài đặc biệt cần tuân thủ Phụ lục này, trừ khi các bên có thoả thuận khác.



PHỤ LỤC IX

SỰ THAM GIA CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ

ĐIỀU 1. Việc sử dụng thuật ngữ "tổ chức quốc tế"

Trong Điều 305 và Phụ lục này, thuật ngữ "các tổ chức quốc tế" được hiểu là một tổ chức liên chính phủ được các quốc gia lập nên, các quốc gia này trao cho tổ chức đó thẩm quyền về các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký kết các hiệp ước về vấn đề này.

ĐIỀU 2. Việc ký kết

Một tổ chức quốc tế có thể ký Công ước, nếu đa số các quốc gia hội viên của tổ chức này là những bên ký kết Công ước, một tổ chức quốc tế ra một tuyên bố nói rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các quốc gia hội viên ký Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này, cũng như tính chất và phạm vi của thẩm quyền này.

ĐIỀU 3. Việc xác nhận chính thức và việc gia nhập

1. Một tổ chức quốc tế có thể gửi lưu chiểu một văn bản xác nhận chính thức hay gia nhập, nếu đa số các quốc gia hội viên của nó gửi hoặc đã gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay gia nhập của mình.

2. Văn bản của tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu lên cần phải có các cam kết và tuyên bố đã quy đinh ở Điều 4 và 5 của Phụ lục này.

ĐIỀU 4. Phạm vi tham gia, các quyền và nghĩa vụ

1. Đối với các vấn đề mà các quốc gia hội viên và là thành viên của Công ước đã giao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế thì văn bản xác nhận chính thức hoặc gia nhập do tổ chức quốc tế đó gửi lưu chiểu cần có lời cam kết chấp nhận các quyền và nghĩa vụ đã được trù định trong Công ước đối với các quốc gia.

2. Một tổ chức quốc tế là thành viên của Công ước trong phạm vi các giới hạn thẩm quyền được xác định trong các tuyên bố, thông tin hoặc thông báo nói ở Điều 5 của Phụ lục này.

3. Đối với các vấn đề đã được các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước trao thẩm quyền cho thì một tổ chức quốc tế sẽ sử dụng các quyền và làm tròn nghĩa vụ, mà lẽ ra theo Công ước là những quyền và nghĩa vụ của các quốc gia này. Các quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế không sử dụng thẩm quyền của mình mà trao cho tổ chức này.

4. Không thể có trường hợp nào mà sự tham gia của một tổ chức quốc tế lại dẫn đến một sự đại diện cao hơn sự đại diện mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước có thể đòi hỏi. Quy định này đã được áp dụng, đặc biệt là đối với các quyền ra các quyết định.

5. Việc tham gia của một tổ chức quốc tế không đem lại cho các quốc gia hội viên của tố chức đó không phải là thành viên của Công ước một quyền nào do Công ước trù định.

6. Trong trường hợp có tranh chấp giữa những nghĩa vụ thuộc bổn phận của một tổ chức quốc tế theo Công ước và những nghĩa vụ thuộc bổn phận của tổ chức này theo điều ước đã thành lập ra nó hoặc theo mọi văn bản có liên quan, thì các nghĩa vụ do Công ước quy định có giá trị cao hơn.

ĐIỀU 5. Các tuyên bố, thông báo và thông tin

1. Tài liệu xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế cần có một tuyên bố xác định rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này.

2. Một quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế, khi phê chuẩn hay gia nhập Công ước, hoặc khi tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia nhập, phải làm một tuyên bố xác định các vấn đề đề cập trong Công ước mà tổ chức đã được trao thẩm quyền, vào ngày muộn nhất trong hai thời điểm nói trên.

3. Các quốc gia thành viên là hội viên của một tổ chức quốc tế, thành viên của Công ước được coi như có thẩm quyền về tất cả các vấn đề thuộc phạm vi của Công ước mà các quốc gia nói trên đã không ghi một cách rõ ràng rằng, họ đã trao thẩm quyền cho tổ chức bằng một tuyên bố, thông tin hoặc thông báo làm theo đúng điều này.

4. Tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước thông báo ngay cho người lưu chiểu bất kỳ sự sửa đổi nào về việc phân chia các thẩm quyền được ghi rõ trong các tuyên bố nói ở khoản 1 và 2, kể cả những việc chuyển giao thẩm quyền mới.

5. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên của tổ chức này là thành viên của Công ước, chỉ rõ ai trong tổ chức hay trong các quốc gia hội viên này có thẩm quyền đối với một vấn đề nhất định được đặt ra. Tổ chức này và các quốc gia hội viên hữu quan thông báo tình hình này, trong một thời hạn hợp lý. Họ cũng có thể tự mình chủ động thông báo một tình hình đó.

6. Tính chất và vi phạm của những thẩm quyền được chuyển giao cần phải được xác định rõ trong các tuyên bố, thông tin và thông báo làm theo điều này.

ĐIỀU 6. Trách nhiệm

1. Các bên có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này có trách nhiệm về mọi thiếu sót đối với những nghĩa vụ nảy sinh từ Công ước và đối với tất cả các vi phạm khác đối với Công ước.

2. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế hoặc các quốc gia hội viên của tổ chức đó là thành viên của Công ước chỉ rõ người có trách nhiệm trong một trường hợp riêng biệt. Tổ chức và các quốc gia hội viên hữu quan cần phải thông báo tình hình này. Nếu không thực hiện điều này trong một thời gian hợp lý, hoặc nếu họ thông báo các thông tin trái ngược nhau, thì họ phải cùng nhau và liên đới chịu trách nhiệm.

ĐIỀU 7. Giải quyết các vụ tranh chấp

1. Khi gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia nhập của mình, hoặc vào bất kỳ thời điểm nào tiếp sau, một tổ chức quốc tế có quyền tự do lựa chọn, qua tuyên bố bằng văn bản, một hoặc nhiều phương pháp đã nêu ở Điều 287, khoản 1 điểm a, c, và để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước.

2. Phần XV được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho bất kỳ vụ tranh chấp nào giữa các thành viên của Công ước mà một hoặc nhiều thành viên đó là các tổ chức quốc tế.

3. Khi một tổ chức quốc tế và một hoặc nhiều quốc gia hội viên của tổ chức này đứng về một phía, thì coi như tổ chức đã chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp như các quốc gia này; trong trường hợp mà một trong số các quốc gia này chỉ chọn Toà án quốc tế theo Điều 287, thì tổ chức và quốc gia hội viên này coi như đã chấp nhận trọng tài theo thủ tục trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên tham gia vào vụ tranh chấp thoả thuận lựa chọn một phương pháp khác.

ĐIỀU 8. Áp dụng Phần XVII

Phần XVII được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho các tổ chức quốc tế, với điều kiện tuân thủ các quy định sau đây

a. Văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 303, khoản 1;

b. i. Một tổ chức quốc tế có quyền đặc biệt để hành động theo các Điều 312 đến 315, nếu tổ chức này có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề nói trong điều sửa đổi;

ii. Khi một tổ chức quốc tế có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề trong điều sửa đổi, thì văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của tổ chức này liên quan đến điều sửa đổi nói trên được coi như văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của từng quốc gia hội viên là thành viên của Công ước trong việc áp dụng Điều 316, các khoản 1, 2 và 3;

iii. Trong tất cả các trường hợp khác, văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 316, khoản 1 và 2;

c. i. Trong Điều 317, một tổ chức quốc tế mà trong số các hội viên của nó có một quốc gia thành viên của Công ước và tổ chức quốc tế đó vẫn tiếp tục thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của Phụ lục này, thì tổ chức quốc tế này không thể từ bỏ Công ước;

ii. Một tổ chức quốc tế phải từ bỏ Công ước, nếu trong số hội viên của nó không còn một quốc gia nào là thành viên của Công ước hoặc nếu tổ chức này đã thôi không thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của Phụ lục này. Sự từ bỏ đó có hiệu lực ngay lập tức.

[1] Bản dịch tiếng Việt của Bộ Ngoại giao.                                                                                                                                                                                                                           Theo thuvienphapluat

Nhận xét

BÀI VIẾT ĐƯỢC QUAN TÂM NHẤT

VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ RABINDRANATH TAGORE

Nằm trong tiếng nói yêu thương…

CHUYẾN ĐÒ QUÊ HƯƠNG

Cưới hỏi ngày ấy, ơi thương...

THƯƠNG HIỆU CÁ NHÂN

Vị quê nhà

Về quê

Nghĩa trang liệt sĩ người Trung Quốc ở Việt Nam: hình ảnh cho một dân tộc sống nhân nghĩa

GIÁO DỤC VIỆT NAM KHI TRƯỜNG "QUỐC TẾ" Ở VIỆT NAM