CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1] (phần 3)
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1]
![]() |
Bản đồ cổ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" khẳng định chủ quyền biển đảo của VIệt Nam. Nguồn: tuyengiao |
Phần XIII
VIỆC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BIỂN
Mục 1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 238. Quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển
Tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu
khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
khác như đã đuợc quy định trong Công uớc.
ĐIỀU 239. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu
khoa học biển
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu
khoa học biển theo đúng Công uớc.
ĐIỀU 240. Các nguyên tắc chung chi phối việc chỉ đạo công
tác nghiên cứu khoa học biển
Công tác nghiên cứu khoa học biển phải phục tùng các nguyên
tắc sau đây: Công tác này đuợc tiến hành nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa
bình;
Công tác này đuợc tiến hành bằng cách dùng các phương pháp
và phương tiện khoa học thích hợp phù hợp với Công uớc;
Công tác này không cản trở một cách vô lý những việc sử dụng
biển hợp pháp khác phù hợp với Công uớc và nó phải đuợc quan tâm đến trong các
việc sử dụng này.
Công tác này đuợc tiến hành theo đúng mọi quy định tương ứng
đuợc thông qua để thi hành Cống uớc, kể cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn
môi truờng biển.
ĐIỀU 241. Việc không thừa nhận công tác nghiên cứu khoa học
biển với tư cách là cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đó
Công tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra co sở pháp lý
cho một yêu sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi truờng biển hay của các
tài nguyên của nó.
Mục 2. SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ
ĐIỀU 242. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác quốc
tế
Chấp hành nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán,
và trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại về lợi ích, các quốc gia và các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về mặt
nghiên cứu khoa học biển vì mục đích hòa bình.
Trong bối cảnh này và không làm phương hại đến các quyền và
nghĩa vụ các quốc gia theo Công uớc, một quốc gia khi hành động theo phần này,
cần tùy theo tình hình mà dành cho các quốc gia
khác các khả năng hợp lý để nhận đuợc của mình hay với sự hợp tác của
mình các thông tin cần thiết để ngăn ngừa và chế ngự các tác hại đối với sức khỏe
và đối với sự an toàn của con nguời và môi truờng biển.
ĐIỀU 243. Việc tạo ra các điều kiện thuận lợi
Các quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau
qua việc ký kết các hiệp định hai bên và nhiều bên để tạo ra các điều kiện thuận
lợi cho việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển trong môi truờng biển và
kết hợp những nỗ lực của các nhà nghiên cứu khoa học tiền hành nghiên cứu bản
chất của các hiện tuợng, các quá trình xảy ra trong môi truờng biển và các tác
động qua lại của chúng.
ĐIỀU 244. Việc công bố và phổ biến các thông tin và kiến thức
Bằng các con đuờng thích hợp và theo đúng Công uớc, các quốc
gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền công bố, phổ biến các thông tin liên quan
đến các chương trình chủ yếu đuợc dự tính và các mục tiêu của chúng, cũng như
những kiến thức đuợc rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển.
Vì mục đích này, các quốc gia, tự mình hay hợp tác với các
quốc gia khác và với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tích cực tạo điều kiện
thuận lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa học và cho việc chuyển
giao các kiến thức rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển, đặc biệt là cho
các quốc gia đang phát triển cũng như cho việc tăng cuờng khả năng của chính
các quốc gia này để tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển, nhất là bằng
các chuong trình giúp cho các nhân viên kỹ thuật và khoa học của họ đuợc huởng
một sự giáo dục và đào tạo thích hợp.
Mục 3. SỰ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BIỂN VÀ HOẠT
ĐỘNG NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO CÔNG VIỆC NÀY
ĐIỀU 245. Việc nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải
Trong việc thực hiện chủ quyền của mình, các quốc gia ven biển
có đặc quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học
biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc tiến hành vợi sự thảo thuận rõ ràng của quốc gia
ven biển và trong các điều kiện do quốc gia này ấn định.
ĐIỀU 246. Việc nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền
về kinh tế và trên thềm lục địa
Trong việc thi hành quyền tài phán của mình, các quốc gia
ven biển có quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa
học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của mình theo
đúng các quy định tương ứng của Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về
kinh tế và trên thềm lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven
biển.
Trong những truờng hợp bình thuờng, các quốc gia ven biển thỏa
thuận cho thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học biển mà các quốc gia khác hay
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền dự định tiến hành trong vùng đặc quyền về
kinh tế hay trên thềm lục địa của mình theo đúng Công uớc, nhằm vào những mục
đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm kiến thức khoa học về môi truờng biển,
vì lợi ích của toàn thể loài nguời. Vì mục đích này, các quốc gia ven biển
thông qua các quy tắc và thủ tục bảo đảm sẽ cho phép trong những thời hạn hợp
lý và sẽ không khuớc từ một cách phi lý.
Trong việc áp dụng khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc coi
là bình thuờng ngay cả khi giữa quốc gia ven biển và quốc gia đề nghị thực hiện
công trình nghiên cứu không có quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không cho
phép thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay một
tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay
trên thềm lục địa của mình trong các truờng hợp sau:
a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò và Khai
thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
b. Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục địa,
sử dụng chất nổ hay đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển;
c. Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng
các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đã nêu ở các Điều 60 và 80;
d. Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và mục
tiêu của dự án theo Điều 248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, tác giả của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với quốc
gia ven biển hữu quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dầu khoản 5 đa quy định như thế, các quốc gia ven biển
cũng không thể thi hành quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của khoản này, đối với
các dự án nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng phần này trên thềm
lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quá 200 hải lý,
ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ lúc nào các quốc gia ven biển cung có thể
chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ làm nơi để tiến hành công việc khai thác
hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển
thông báo trong những thời hạn hợp lý các khu vực mà mình chỉ định cũng như tất
cả những thay đổi có liên quan, nhung không có trách nhiệm cung cấp các chi tiết
về các công việc trên các khu vực này.
Khoản 6 đuợc áp dụng không phương hại đến các quyền ở thềm lục
địa đuợc thừa nhận cho các quốc gia ven biển ở Điều 77.
Các công tác nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này không
đuợc gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến
hành trong việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công uớc đã
trù định.
ĐIỀU 247. Các dự dán nghiên cứu do các tổ chức quốc tế thực
hiện hay duới sự bảo trợ của các tổ chức này
Một quốc gia ven biển là hội viên của một tổ chức quốc tế,
hay bị ràng buộc với tổ chức quốc tế đó qua một hiệp định tay đôi và ở vùng đặc
quyền về kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, tổ chức quốc tế nói trên muốn
trực tiếp tiến hành, hay cho tiến hành duới sự bảo trợ của mình một dự án
nghiên cứu khoa học biển, thì nếu như quốc gia đó đã chuẩn y dự án chi tiết khi
tổ chức quốc tế quyết định tiến hành dự án, hay là quốc gia đó đã sẵn sàng tham
gia dự án nghiên cứu khoa học biển và không có ý kiến phản đối nào sau thời
gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó thông báo cho quốc gia về dự án nói trên,
thì quốc gia đó coi như đa cho phép thực hiện dự án đúng theo các quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận.
ĐIỀU 248. Nghĩa vụ cung cấp các thông tin cho quốc gia ven
biển
Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền muốn tiền
hành các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay
trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, phải cung cấp cho quốc gia này, chậm
nhất là không quá 6 tháng truớc thời gian dự kiến để bắt đầu dự án nghiên cứu
khoa học biển, một bản mô tả đầy đủ, chỉ rõ:
Tính chất và các mục tiêu của dự án
Phương pháp và các phương tiện sẽ đuợc sử dụng; có nói rõ
tên, trọng luợng, kiểu và loại tàu thuyền, và một bản mô tả các dụng cụ khoa học;
Các khu vực địa lý cụ thể mà dự án sẽ thực hiện;
Các thời hạn dự định cho chuyện đến đầu tiên và chuyện ra đi
cuối cùng của các tàu thuyền nghiên cứu, hay thời hạn dự định cho việc triển
khai và rút thiết bị, và thời hạn dự định cho việc thu hồi dụng cụ nghiên cứu,
tùy theo truờng hợp;
Tên cơ quan bảo trợ cho dự án nghiên cứu, tên của giám đốc
cơ quan này và của nguời chịu trách nhiệm dự án;
Mức độ mà quốc gia ven biển có thể tham gia vào dự án hay đuợc
cử đại diện
ĐIỀU 249. Nghĩa vụ tuân thủ một số điều kiện
1. Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện
công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm
lục địa của một quốc gia ven biển, cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a. Bảo đảm cho quốc gia ven biển, nếu quốc gia này muốn, quyền
tham gia vào dự án nghiên cứu khoa học biển hay đặc biệt là khi có thể đuợc, cử
đại diện lên trên các tàu thuyền và các xuồng nghiên cứu khác hay lên trên các
thiết bị nghiên cứu khoa học, nhung không phải thanh toán một khoản tiền thù
lao nào cho những nhà nghiên cứu của quốc gia này, và quốc gia này cũng không bị
buộc phải đóng góp vào các kinh phí của dự án;
b. Một khi công việc nghiên cứu đã kết thúc, phải cung cấp
càng sớm càng tốt, theo yêu cầu của quốc gia ven biển, những báo cáo sơ bộ,
cũng như các kết quả và kết luận cuối cùng;
c. Cam kết cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, tiếp
xúc với tất cả các mẫu vật và dữ kiện thu đuợc trong khuôn khổ của dự án nghiên
cứu khoa học biển, cũng như cam kết cung cấp cho quốc gia này những dữ kiện có
thể sao lại và các mẫu vật có thể đuợc phân chia mà không làm giảm giá trị khoa
học của chúng;
d. Cung cấp cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, một
bản đánh giá về các dữ kiện, các mẫu vật và các kết quả nghiên cứu đó, hay giúp
đỡ cho quốc gia này tiến hành đánh giá hoặc giải thích chung;
e. Với điều kiện phải thực hiện quy định ở khoản 2, bảo đảm
cho các kết quả của công tác nghiên cứu đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng càng sớm
càng tốt trên truờng quốc tế qua các con đuờng quốc gia hay quốc tế thích hợp.
f. Thông báo ngay cho quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi quan
trọng nào đối với dự án nghiên cứu;
g. Một khi công tác nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo gỡ các
thiết bị hay công cụ nghiên cứu khoa học, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
2. Điều này đuợc áp dụng không làm phương hại đến các điều
kiện do các luật và quy định của quốc gia ven biển ấn định về việc thi hành quyền
tùy ý quyết định đồng ý hay không đồng ý theo Điều 246, khoản 5, kể cả việc bắt
buộc phải đuợc sự đồng ý truớc của nuớc đó mới đuợc phổ biến trên phạm vi quốc
tế các kết quả nghiên cứu thuộc một dự án có liên quan trực tiếp đến việc thăm
dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên.
ĐIỀU 250. Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự án
nghiên cứu khoa học biển
Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu
khoa học biển phải đuợc tiến hành qua các con đuờng chính thức thích hợp, trừ
khi có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 251. Các tiêu chuẩn chung và các nguyên tắc chỉ đạo
Các quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền có thể thực
hiện một dự án nghiên cứu khoa học sau một thời hạn 6 tháng kể từ ngày các
thông tin cần thiết theo Điều 248 đã đuợc thông báo cho quốc gia ven biển, trừ
khi trong một thời hạn 4 tháng kể từ lúc nhận đuợc các thông tin này, quốc gia
ven biển đã báo cho quốc gia hay tổ chức đề nghị thực hiện các công tác nghiên
cứu biết:
Quốc gia ven biển đã khuớc từ theo Điều 246; hay
Các thông tin do quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền
này cung cấp về tính chất hay mục tiêu của dự án không phù hợp với sự thực hiển
nhiên; hay
Quốc gia ven biển cần có một thông báo bổ sung về những
thông tin hoặc những điều kiện đã nêu ở các Điều 248 và 249; hay
Các nghĩa vụ nẩy sinh từ các điều kiện đã đuợc quy định ở Điều
249 cho một dự án nghiên cứu khoa học biển do quốc gia hay tổ chức quốc tế này
thực hiện truớc đây đã không đuợc làm tròn.
ĐIỀU 253. Việc đinh chỉ hoặc chấm dứt công việc nghiên cứu
khoa học biển
1. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu đinh chỉ các công việc
nghiên cứu khoa học biển đang tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay
trên thềm lục địa của mình:
Nếu công việc này không đuợc tiến hành theo đúng các thông
tin đã đuợc thông báo theo Điều 248 mà quốc gia ven biển đã dựa vào để đồng ý
cho phép; hay
Nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi tiến hành
công việc này không tôn trọng các quy định của Điều 249 liên quan đến các quyền
của quốc gia ven biển đối với dự án nghiên cứu khoa học biển.
2. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu chấm dứt mọi công việc
nghiên cứu khoa học biển trong tất cả các truờng hợp mà việc không tuân thủ Điều
248 có nghĩa là làm thay đổi lớn dự án các công trình nghiên cứu.
3. Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu chấm dứt các công
việc nghiên cứu khoa học biển, nếu như, trong một thời gian hợp lý, một điểm bất
kỳ trong những tình hình nêu ở khoản 1 không đuợc sửa chữa.
4. Sau khi nhận đuợc thông báo về quyết định của quốc gia
ven biển đòi đinh chỉ hay chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học biển, các quốc
gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã đuợc phép tiến hành các công việc này
phải chấm dứt những công việc thuộc đối tuợng của thông báo.
5. Lệnh đinh chỉ đuợc đưa ra theo khoản 1 phải do quốc gia
ven biển thu hồi, và dự án khoa học nghiên cứu biển có thể đuợc tiếp tục ngay
khi quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện các công tác nghiên cứu
khoa học biển này đã tuân theo các điều kiện quy định ở các Điều 248 và 249.
ĐIỀU 254. Các quyền của các quốc gia láng giềng không có biển
và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi
1. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi đã
trao cho một quốc gia ven biển một dự án nghiên cứu khoa học biển nêu ở Điều
246, khoản 3, cần thông báo dự án này cho các quốc gia láng giềng không có biển
và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi, và báo cho quốc gia ven
biển việc gửi các thông báo này.
2. Một khi quốc gia ven biển có liên quan đã chấp thuận dự
án, theo đúng điều 246 và các quy định thích hợp khác của Công uớc, các quốc
gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi thực hiện dự án cần cung cấp cho
các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa
lý bất lợi các thông tin đã đuợc quy định rõ ở các Điều 248 và 249, khoản 1, điểm
f, theo yêu cầu của họ và tùy theo sự cần thiết.
3. Các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt
địa lý đã nói ở trên, theo yêu cầu của mình, có khả năng đuợc tham gia trong chừng
mực có thể vào dự án nghiên cứu khoa học hiển đã đuợc dự tính qua các chuyên
gia có trình độ do mình chỉ định và đuợc quốc gia ven biển chấp nhận, theo những
điều kiện mà quốc gia ven biển và quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
tiến hành công tác nghiên cứu khoa học biển đã thảo luận để thực hiện dự án,
phù hợp với Công uớc.
4. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã nêu ở
khoản 1 cung cấp cho các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt
địa lý nói trên, theo yêu cầu của họ, những thông tin và sự giúp đỡ đã đuợc quy
định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm d, với điều kiẹn phải tuân thủ khoản 2 của
chính điều này.
ĐIỀU 255. Những biện pháp nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc
nghiên cứu khoa học biển và giúp đỡ cho các tàu thuyền nghiên cứu
Các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc, quy định và thủ
tục hợp lý nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu
khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng Công uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu cần,
thì tạo điều kiện cho các tàu thuyền nghiên cứu khoa học biển chấp hành các quy
định thích hợp của phần này vào ra cảng của các quốc gia nói trên đuợc dễ dàng,
với điều kiện là phải tuân thủ theo các luật và quy định của các quốc gia này,
và phải khuyến khích sự giúp đỡ cho các tàu thuyền này.
ĐIỀU 256. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế
nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc
nghiên cứu khoa học biển trong Vùng, theo đúng phần XI.
ĐIỀU 257. Việc nghiên cứu khoa học biển trong phần nuớc nằm
ngoài ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế
nào, cũng nhu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc
nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc trong phần nuớc nằm ngoài ranh giới
của vùng đặc quyền về kinh tế.
Mục 4. CÁC THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG MÔI
TRUỜNG BIỂN
ĐIỀU 258. Việc đặt và sử dụng
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa
học thuộc bất kỳ kiểu nào ở một vùng nào đó của môi truờng biển phải phụ thuộc
vào cùng các điều kiện như đã đuợc Công uớc trù định cho việc tiến hành nghiên
cứu khoa học biển ở trong khu vực kể trên.
ĐIỀU 259. Chế độ pháp lý
Các thiết bị hay dụng cụ đuợc nêu trong mục này, không có
quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, và sự có mặt của chúng
không có ảnh huởng đến vấn đề hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng độc quyền về
kinh tế hay thềm lục địa.
ĐIỀU 260. Khu vực an toàn
Các khu vực an toàn có một chiều rộng hợp lý không quá 500m
có thể đuợc lập ra xung quanh các thiết bị nghiên cứu khoa học, theo đúng các
quy định tuong ứng của Công uớc. Tất cả các quốc gia phải chú ý bảo đảm cho tàu
thuyền của mình tôn trọng các khu vực an toàn này.
ĐIỀU 261. Nghĩa vụ không đuợc gây trở ngại cho hàng hải quốc
tế
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa
học thuộc bất kỳ kiểu nào không đuợc gây cản trở cho việc hàng hải theo các con
đuờng quốc tế thuờng dùng.
ĐIỀU 262. Dấu hiệu nhận dạng và phương tiện báo hiệu
Các thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong mục này phải có các dấu
hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ thuộc
vào, cũng như, phải có các phuong tiện báo hiệu thích hợp đã đuợc chấp thuận
trên truờng quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và hàng không, có tính đến
các quy tắc và quy phạm do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra.
Mục 5. TRÁCH NHIỆM
ĐIỀU 263. Trách nhiệm
Bổn phận của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
là phải quan tâm, sao cho việc nghiên cứu khoa học biển, bất kể chúng do hoặc
nguời thay mặt cho họ thực hiện, đều đuợc tiến hành theo đúng Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền chịu trách nhiệm
về những biện pháp mà mình thi hành, vi phạm Công uớc, liên quan đến các công
việc nghiên cứu khoa học biển do các quốc gia khác, các tự nhiên nhân hay pháp
nhân có quốc tịch của các quốc gia khác đó hoặc do các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền tiến hành, và phải đền bù các tồn thất do các biện pháp đó gây ra.
Các quốc gia và tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm,
theo Điều 235, về các tổn thất gây ra bởi nạn ô nhiễm môi truờng biển xuất phát
từ việc nghiên cứu khoa học biển do mình thực hiện hay do nguời thay mặt cho
mình thực hiện.
Mục 6. GIẢi QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
ĐIỀU 264. Việc giải quyết các tranh chấp
Các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các
quy định của Công uớc về việc nghiên cứu khoa học biển đuợc giải quyết theo
đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV
ĐIỀU 265. Các biện pháp bảo đảm
Chừng nào một tranh chấp chưa đuợc giải quyết theo đúng các
Mục 2 và 3 của Phần XV, thì quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đuợc
phép thực hiện dự án nghiên cứu khoa học biển, không cho phép thực hiện hay tiếp
tục việc nghiên cứu khoa học nếu không có sự đồng ý rõ ràng của các quốc gia
ven biển hữu quan.
PHẦN XIV
PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT BIỂN
Mục 1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 266. Việc xúc tiến phát triển và chuyển giao các kỹ thuật
biển
1. Các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, trong phạm vi khả năng của mình, nhằm tích cực tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển và chuyển giao khoa học và kỹ thuật biển theo
các thể thức và điều kiện công bằng và hợp lý.
2. Các quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khả
năng trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển của các quốc gia có nhu cầu và
yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ về kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các
quốc gia đang phát triển, kể cả quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa
lý, trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên của biển, trong
việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, trong việc nghiên cứu khoa học biển và
các hoạt động khác nhằm tiến hành trong môi trường biển phù hợp với Công ước,
nhằm thúc đẩy tiển bộ xã hội và kinh tế của các quốc gia đang phát triển.
3. Các quốc gia cố gắng giúp tạo ra các điều kiện kinh tế và
pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật biển, trên cơ sở công bằng, có
lợi cho tất cả các bên hữu quan.
ĐIỀU 267. Việc bảo vệ các lợi ích chính đáng
Để tạo điều kiện cho sự hợp tác theo Điều 266, các quốc gia
cần phải tính đến tất cả các lợi ích chính đáng, cũng như các quyền và nghĩa vụ
của người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận các kỹ thuật
biển.
ĐIỀU 268. Các mục tiêu cơ bản
Các quốc gia trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, cần phải xúc tiến:
Việc nắm, đánh giá và phổ biến các kiến thức trong lĩnh vực
kỹ thuật biển; các quốc gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với
các thông tin và các dữ liệu tương ứng;
Việc phát triển các kỹ thuật biển thích hợp;
Việc phát triển hạ tầng cơ sở về kỹ thuật cần thiết để làm dễ
dàng cho việc chuyển giao các kỹ thuật biển;
Việc khai thác nguồn nhân lực qua việc đào tạo và giảng dạy
cho các công dân của các quốc gia và các nước đang phát triển, đặc biệt là những
nước kém phát triển nhất trong các quốc gia đang phát triển đó;
Việc hợp tác quốc tế ở mọi mức độ, nhất là việc hợp tác theo
khu vực, phân khu vực và tay đôi.
ĐIỀU 269. Các biện pháp được thi hành để đạt tới các mục
tiêu cơ bản
Để đạt đến các mục tiêu cơ bản đã nêu ở Điều 268, ngoài các
biện pháp khác, các quốc gia tìm cách, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền, để:
Lập ra các chương trình hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển giao thực
sự các kỹ thuật biển thuộc đủ mọi loại cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu
hưởng một sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật biển trong lĩnh vực này, nhất là cho các
quốc gia đang phát triển không có biển hay bất lợi về địa lý, cũng như cho các
quốc gia đang phát triển khác không có khả năng hoặc để tạo ra hoặc để phát triển
khả năng kỹ thuận riêng của mình trong lĩnh vực khoa học biển và trong lĩnh vực
thăm dò và khai thác các tài nguyên của biển, cũng không có khả năng phát triển
hạ tầng cơ sở cần thiết cho các kỹ thuật này;
Giúp tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc ký kết các hiệp
định, các hợp đồng hay các thỏa thuận tương tự khác, trong những điều kiện công
bằng, hợp lý;
Tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận về các
vấn đề khoa học và kỹ thuật, nhất là về các chính sách và phương pháp cần đề ra
để thực hiện chuyển giao các kỹ thuật biển;
Tạo điều khiện thuận lợi cho việc trao đổi các nhà khoa học,
kỹ thuật và các chuyên gia khác;
Thực hiện các dự án và xúc tiến các xí nghiệp liên doanh và
các hình thức hợp tác hai bên và nhiều bên khác.
Mục 2. VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
ĐIỀU 270. Khuôn khổ và hợp tác quốc tế
Việc hợp tác quốc tế để phát triển và chuyển giao kỹ thuật
biển được thực hiện, khi có thể được và thích hợp, trong khuôn khổ của các
chương trình hai bên, khu vực, và nhiều bên hiện có, cũng như trong khuôn khổ của
các chương trình được mở rộng và của các chương trình mới, nhằm làm dễ dàng cho
việc nghiên cứu khoa học biển và chuyển giao kỹ thuật biển, đặc biệt, trong các
lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí quốc tế thích hợp cho việc nghiên cứu đại dương
và khai thác các đại dương.
ĐIỀU 271. Các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và quy phạm
Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, tìm cách xúc tiến việc soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo, các
tiêu chuẩn và qui phạm được chấp nhận chung về việc chuyển giao kỹ thuật biền
trong khuôn khổ của các thỏa hiệp hai bên hay trong khuôn khổ của các tổ chức
quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của quốc
gia đang phát triển.
ĐIỀU 272. Việc phối hợp các chương trình quốc tế
Trong lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật biển, các quốc gia cố gắng
bảo đảm cho các tổ chức quốc tế có thâtm quyền phối hợp với các hoạt động của họ,
kể cả mọi chương trình khu vực và thế giới, có tính đến các lợi ích và nhu cầu
của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia không có biển hay bất
lợi về mặt địa lý.
ĐIỀU 273. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và Cơ quan
quyền lực
Các quốc gia tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền và với Cơ quan quyền lực nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển, cho công dân của họ và cho
xí nghiệp những kiến thức thực tiễn và kỹ thuật biển có liên quan đến các hoạt
động trong Vùng.
ĐIỀU 274. Các mục tiêu của Cơ quan quyền lực
Về các hoạt động tiến hành trong Vùng, Cơ quan quyền lực
quan tâm tới mọi lợi ích chính đáng cũng như các quyền và nghĩa vụ của những
người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận kỹ thuật, đảm bảo
cho:
Theo đúng nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý, các
công dân của các quốc gia đang phát triền, dù là quốc gia ven biển, không có biển
hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi, được đưa vào làm nhân viên tập sự trong số các
nhân viên kỹ thuật, quản lý và nghiên cứu được tuyển cho các nhu cầu hoạt động
của Cơ quan quyền lực;
Tài liệu kỹ thuật về dụng cụ, máy móc thiết bị và phương
pháp đã dùng phải để cho tất cả các quốc gia sử dụng, nhất là cho các quốc gia
đang phát triển đang có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ kỹ thuật trong
lĩnh vực này;
Các quy định thích hợp phải được xác định ngay trong Cơ quan
quyền lực để tạo điều kiện dễ dàng cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được
hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các quốc
gia đang phát triển, và công dân của các nước này, nắm được các kiến thức và có
trình độ thành thạo cần thiết, kể cả việc được hưởng một sự đào luyện về nghề
nghiệp.
Các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ
kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, nhận được một
sự giúp đỡ để có được trang thiết bị, các phương pháp, dụng cụ và bí quyết kỹ
thuật cần thiết, trong khuôn khổ của các thỏa thuận tài chính trù định trong
Công ước.
Mục 3. CÁC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT BIỂN CỦA
QUỐC GIA VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 275. Việc thành lập các trung tâm quốc gia
1. Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập,
nhất là trong các quốc gia ven biển đang phát triển, các trung tâm quốc gia
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển, và tăng cường các trung tâm hiện có, để động
viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia này và để
phát triển khả năng riêng của từng nước nhằm sử dụng và gìn giữ các tài nguyên
biển của họ cho mục đích kinh tế.
2. Các quốc gia, thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
và Cơ quan quyền lực, góp phần giúp đỡ thích đáng để tạo điều kiện dễ dàng cho
việc thành lập và tăng cường các trung tâm quốc gia nhằm làm cho các quốc gia
có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ như vậy có được những phương tiện
đào tạo tiên tiến, những thiết bị, những kiến thức thực tiễn và sự thông thạo cần
thiết, cũng như các chuyên gia kỹ thuật.
ĐIỀU 276. Việc thành lập các trung tâm khu vực
1. Phối hợp với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ quan
quyền lực và các viện nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ thuật biển, các quốc
gia tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia đang
phát triển, các trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển của khu vực, nhằm
khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia này
và để làm dễ dàng cho việc chuyển giao kỹ thuật biển.
2. Tất cả các quốc gia của cùng một khu vực cần tập hợp tác
với các trung tâm của khu vực để bảo đảm tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu của
họ.
ĐIỀU 277. Những chức năng của các trung tâm khu vực
Ngoài các chức năng khác, các trung tâm khu vực có trách nhiệm
bảo đảm: Các chương trình đào tạo và giảng dạy ở mọi trình độ trong các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển khác nhau, đặc biệt là môn sinh vật biển,
đề cập trước hết là việc bảo về và quản lý các tài nguyên sinh vật, môn hải
dương học, thủy văn học, kỹ thuật công trình, thăm dò địa chất đáy biển, khai
thác mỏ và kỹ thuật khử mặn nước biển; Việc nghiên cứu công tác quản lý;
Các chương trình nghiên cứu có quan hệ đến việc bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển và việc ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm;
Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận
thuộc khu vực;
Thu thập và xử lý dữ kiện và thông tin trong lĩnh vực khoa học
và kỹ thuật biển;
Phổ biến nhanh chóng các kết quả của việc nghiên cứu khoa học
và kỹ thuật biển trong các tài liệu dễ phổ cập;
Phổ biến các thông tin về các chính sách quốc gia liên quan
đến việc chuyển giao kỹ thuật biển, và việc nghiên cứu so sánh có hệ thống các
chính sách này;
Sưu tập và hệ thống hóa các thông tin liên quan đến việc
thương mại hóa các kỹ thuật, cũng như đến các hợp đồng và các thỏa thuận khác về
các chứng chỉ;
Hợp tác kỹ thuật với các quốc gia khác của khu vực.
Mục 4. VIỆC HỢP TÁC GIỮA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
ĐIỀU 278. Việc hợp tác giữa các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền nói trong phần này và Phần
XIII thi hành mọi biện pháp cần thiết để trực tiếp hay bằng cách hợp tác chặt
chẽ, làm tròn các chức năng và nhiệm vụ mà mình đảm đương theo phần này.
Phần XV
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
Mục 1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 279. Nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp
hòa bình
Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa
họ về việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình theo
đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến chương liên hợp quốc và, vì mục đích này, cần phải
tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 1 của Hiến
chương.
ĐIỀU 280. Giải quyết các tranh chấp bằng bất kỳ phương pháp
hòa bình nào do các bên lựa chọn
Không một quy định nào của phần này ảnh hưởng đến quyền của
các quốc gia thành viên đi đến thỏa thuận giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng bất
kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra
giữa họ và vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước.
ĐIỀU 281. Thủ tục phải tuân theo khi các bên không đạt tới một
cách giải quyết
1. Khi các quốc gia thành viên tham gia và một vụ tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã thỏa thuận tìm cách giải
quyết tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, thì các thủ tục được
trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta không đạt được một cách
giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên không loại trừ
khả năng tiến hành một thủ tục khác.
2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì khoản một
chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này.
ĐIỀU 282. Các nghĩa vụ xuất phát từ các hiệp định chung, khu
vực hay hai bên
Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, trong khuôn khổ của một hiệp
định chung, khu vực hay hai bên hay bất kỳ cách nào, đã thỏa thuận rằng một vụ
tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn đến một quyết định bắt buộc,
thì thủ tục này được áp dụng thay cho các thủ tục đã được trù định trong phần
này, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 283. Nghĩa vụ tiến hành các cuộc trao đổi về quan điểm
1. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến
hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác.
2. Cũng như vậy, các bên tiến hành ngay một cuộc trao đổi
quan điểm mỗi khi kết thúc một thủ tục giải quyết đối với một vụ tranh chấp như
vậy mà không giải quyết được, hay mỗi khi đã có một giải pháp và các hoàn cảnh
đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên quan đến việc thi hành giải pháp đó.
ĐIỀU 284. Việc hòa giải
1. Bất kỳ quốc gia nào thành viên nào tham gia vào một vụ
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu
quốc gia khác hay các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đã được
trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay theo một thủ tục hòa giải khác.
2. Khi yêu cầu đã được chấp nhận và nếu các bên đồng ý về thủ
tục hòa giải sẽ được áp dụng, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đưa ra vụ tranh chấp
ra hòa giải theo thủ tục đó.
3. Khi yêu cầu không được chấp nhận hay nếu các bên không thỏa
thuận được về thủ tục hòa giải, thì coi như đã chấm dứt việc hòa giải.
4. Khi một vụ tranh chấp đã được đưa ra hòa giải, thì chỉ kết
thúc việc hòa giải theo đúng thủ tục hòa giải đã thỏa thuận, trừ khi các bên có
sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 285. Việc áp dụng mục này cho các vụ tranh chấp đã được
đưa ra theo phần XI
Mục này được áp dụng cho bất kỳ vụ tranh chấp nào mà theo Mục
5 của Phần XI cần được giải quyết theo đúng các thủ tục đã trù định trong phần
này. Nếu một thực thế không phải là một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ
tranh chấp như thế, thì mục này được áp dụng mutalis mutandis (với những sửa đổi
cần thiết về chi tiết).
Mục 2. CÁC THỦ TỤC BẮT BUỘC DẪN TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT BUỘC
ĐIỀU 286. Phạm vi áp dụng mục này
Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp dụng
Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án có thẩm
quyền theo mục này.
ĐIỀU 287. Việc lựa chọn thủ tục
1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay
ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức
tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục
VII; Toà án quốc tế;
Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục
VIII để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ trong đó.
2. Một bản tuyên bố theo khoản 1 không ảnh hưởng đến nghĩa vụ
của một quốc gia thành viên phải chấp nhận, trong phạm vi và theo các thể thức
được trù định ở Mục 5 của phần XI, thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh chấp
có liên quan đến đáy biển thuộc Toàn án quốc tế về luật biển và tuyên bố đó
cũng không bị nghĩa vụ này tác động đến.
3. Một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà
không được một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ, thì được xem là đã chấp nhận thủ
tục trọng tài đã trù định ở Phụ lục VII.
4. Nếu các bên tranh chấp đã chấp nhận cùng một thủ tục để
giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết
theo thủ tục đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
5. Nếu các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để
giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết
theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có thỏa
thuận khác.
6. Một bản tuyên bố theo đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực trong
vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông báo hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
7. Một tuyên bố mới, một thông báo hủy nbỏ hay việc một
tuyên bố hết hạn không hề ảnh hưởng đến thủ tục đang tiến hành trước một toàn
án có thẩm quyền theo điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
8. Các tuyên bố và thông báo đã nêu ở điều này được gửi đến
Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển và Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các
bản sao cho các quốc gia thành viên.
ĐIỀU 288. Thẩm quyền
1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được đưa
ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế
có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng
điều ước này.
3. Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập
nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào khác, hay tòa trọng tài nào khác,
đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền xét xử mọi vấn đề đã được đưa ra
cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án có
thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định.
ĐIỀU 289. Các chuyên viên
Đối với mọi tranh chấp đụng chạm đến những vấn đề khoa học
hay kỹ thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền của mình theo mục này, theo
yêu cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo ý kiến các bên, có thể lựa
chọn trên một bản danh sách thích hợp được lập nên theo đúng Điều 2 của phụ lục
VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ thuật tham gia tòa án nhưng
không có quyền biểu quyết.
ĐIỀU 290. Những biện pháp bảo đảm
1. Nếu một tòa án được đề nghị xét một vụ tranh chấp theo
đúng thủ tục và thấy prima facie (hiển nhiên) là mình có thẩm quyền theo phần
này hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế qui định tất cả các biện pháp
bảo đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình để bảo vệ các quyền riêng của
từng bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường của biển bị những tổn thất
nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng.
2. Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay
khi các hoàn cảnh chứng minh cho các biện pháp đó thay đổi hay không còn tồn tại.
3. Các biện pháp bảo đảm chỉ có thể được qui định, sửa đổi
hay hủy bỏ theo điều này, theo yêu cầu của một bên tranh chấp và sau khi đã tạo
cho các bên tranh chấp khả năng thỏa thuận được với nhau.
4. Toà án thông báo ngay mọi biện pháp bảo đảm hay mọi quyết
định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các bên tranh chấp, và nếu xét thấy
thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên khác.
5. Trong khi chờ lập ra một tòa trọng tài xét xử một vụ
tranh chấp theo mục này, mọi tòa án do các bên thỏa thuận với nhau chỉ định, hoặc,
nếu không thỏa thuận được trong một thời hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu các biện
pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật biển, hay trong trường hợp của các hoạt động
tiến hành trong Vùng, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, có
thể quy định, sửa đổi hay hủy bỏ các biện pháp bảo đảm theo đúng điều này, nếu
như họ thấy prima facie (hiển nhiên) rằng tòa án cần được lập ra sẽ có thẩm quyền,
và nếu như họ xét thấy rằng tính chất khẩn trương của tình hình đòi hỏi phải
làm như vậy. Một khi được thành lập, tòa án được giao xét xử vụ tranh chấp,
hành động theo đúng các khoản 1 đến 4, có thể sửa đổi, hủy bỏ hay xác nhận biện
pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh chấp phải tuân theo không chậm trễ các biện
pháp bảo đảm được quy định theo điều này.
ĐIỀU 291. Việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp
1. Tất cả các thủ tục giải quyết tranh chấp được trù định
trong phần này đều để ngỏ cho các quốc gia thành viên.
2. Các thủ tục để giải quyết tranh chấp được trù định trong
phần này chỉ để ngo cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên trong phạm
vi mà Công ước đã trù định một cách rõ ràng.
ĐIỀU 292. Giải phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ hay trả
tự do cho đoàn thủy thủ của nó
1. Khi các nhà chức trách của một quốc gia thành viên đã bắt
giữ một chiếc tàu mang cờ của một quốc gia thành viên khác và nếu thấy rằng quốc
gia bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo các qui định của Công ước trù định việc
giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó ngay khi
ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý hay một khoản bảo đảm tài chính nào khác,
thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ phải được đưa ra trước
một tóa án do các bên chỉ định theo một thỏa thuận chung; nếu không thỏa thuận
đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể từ lúc bắt giữ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ,
vấn đề này có thể được đưa ra trước một tòa án được quốc gia đã tiến hành bắt
hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp nhận theo đúng Điều 287, hay trước Tòa án quốc
tế về luật biển, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc gia
mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa ra.
3. Tòa án nhanh chóng xem xét yêu cầu này và chỉ xét xử vấn
đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ, việc này không có ảnh hưởng
gì đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc tàu, người chủ chiếc tàu
hay đoàn thủy thủ của nó có thể là đối tượng trước quyền tài phán quốc gia
thích hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành bắt, giữ vẫn có đủ tư
cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó vào bất kỳ
lúc nào.
4. Ngay khi đã ký gửi khoản tiền bảo lãnh hay một khoản bảo
đảm tài chính khác theo quyết định của tòa án, các nhà chức trách của quốc gia
đã bắt giữ tàu phải tuân theo quyết định của tòa án về việc giải phóng tàu và
trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
ĐIỀU 293. Luật có thể áp dụng
1. Tòa án có thẩm quyền theo mục này áp dụng các qui định của
Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công ước.
2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền hạn của tòa có thẩm quyền
theo mục này để xét xử ex aequo bono (công bằng) nếu các bên thỏa thuận.
ĐIỀU 294. Các thủ tục sơ bộ
1. Tòa án được trù định ở Điều 287 nhận được đơn yêu cầu xét
xử một vụ tranh chấp nói ở Điều 297 quyết định theo thỉnh cầu của một bên, hay
có thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu này có phải là một sự lạm dụng các
phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là có căn cứ. Nếu tòa án xét thấy
rằng, đó là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên)
là không có căn cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được đơn, tòa án thông báo ngay cho bên kia hay
các bên kia, và qui định một thời hạn hợp lý, để các bên này có thể yêu cầu tòa
quyết định về các điểm đã nêu ở khoản 1.
3. Điều này không hề đụng chạm đến các quyền của một bên
tranh chấp nêu lên những phản bác sơ bộ theo đúng các qui tắc tố tụng có thể áp
dụng.
ĐIỀU 295. Trường hợp các biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử
dụng hết
Một vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước, chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo
các thủ tụ đã qui định ở mục này sau khi các biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử
dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 296. Tính chất tối hậu và bắt buộc của các quyết định
1. Các quyết định do tòa án có thẩm quyền theo mục này đưa
ra là có tính chất tối hậu, và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo.
2. Các quyết định đó chỉ có tính chất bắt buộc đối với các
bên và trong trường hợp riêng biệt được xem xét.
Mục 3. CÁC GIỚI HẠN VÀ NGOẠI LỆ ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG
ĐIỀU 297. Các giới hạn áp dụng mục 2
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc
gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, được xét theo các thủ tục giải
quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công ước
liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các
dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục đích khác
mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;
Khi thấy rằng trong việc thi hành các tự do và các quyền đó
hoặc trong việc sử dụng các quyền này, một quốc gia đã không tuân theo Công ước
hay các luật hoặc các qui định do quốc gia ven biển đề ra phù hợp với các qui định
của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không trái với Công ước;
hoặc
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo các qui tắc
hay quy phạm quốc tế đã được xác định nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển có
thể áp dụng cho quốc gia này và đã được Công ước đặt ra, hay được đặt ra thông
qua một tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay một hội nghị ngoại giao hành động phù
hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng các qui định của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được giải quyết theo
đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận theo cách giải quyết
như thế đối với một vụ tranh chấp phát sinh từ:
Việc quốc gia này thi hành một quyền tùy ý quyết định theo đúng
Điều 246; hay
Quyết định của quốc gia này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm dứt
tiến hành một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253;
b) Các vụ tranh chấp phát sinh từ một luận cứ của quốc gia
nghiên cứu cho rằng trong trường hợp của một dự án riêng biệt, quốc gia ven biển
không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253 đã dành cho mình một cách phù hợp
với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay bên khác được đưa ra hòa giải
theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, dĩ nhiên là Ủy ban hòa giải
không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết định của quốc gia ven biển trong
việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã được trù định ở Điều 246, khoản 6,
cũng như việc thi hành quyền tùy ý không cho phép theo đúng khoản 5 của cùng điều
đó.
3. a) Các việc tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng các qui định của Công ước về việc đánh bắt hải sản được giải quyết theo
đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận cách giải quyết như
vậy về một vụ tranh chấp liên quan đến các quyền thuộc chủ quyền của mình đối với
các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hay liên quan
đến việc thi hành các quyền này, kể cả quyền tùy ý qui định khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận được và khả năng đánh bắt của mình, phân phối số dư ra giữa
các quốc gia khác, quyết định các thể thức, điều kiện đặt ra trong các luật và
qui định của mình về bảo vệ và quản lý;
b) Nếu việc vận dụng Mục 1, không cho phép đi đến một cách
giải quyết, thể theo yêu cầu của một bên nào đó trong số các bên tranh chấp, vụ
tranh chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục được trù định ở Mục 2 của Phụ lục
V, khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển đã:
Rõ ràng không thực hiện nghĩa vụ phải dùng các biện pháp bảo
vệ và quản lý thích hợp để bảo đảm rằng việc duy trì các tài nguyên sinh vật
thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng nghiêm trọng;
Độc đoán từ chối việc quy định, theo yêu cầu của một quốc
gia khác khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng khai thác tài
nguyên sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải sản mà việc khai thác có
liên quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối việc chia cho một quốc gia nào đó toàn bộ
hay một phần số cá dư mà mình đã xác nhận, như đã trù định ở các Điều 62, 69 và
70 và theo các thể thức và điều kiện mà bản thân mình đã qui định và phù hợp với
Công ước;
Ủy ban hòa giải không có trường hợp nào được phép dùng quyền
túy ý quyết định của mình thay cho quyền tùy ý quyết định của các quốc gia ven
biển.
Báo cáo của Ủy ban hòa giải phải được thông báo cho các tổ
chức quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về các thỏa thuận đã trù định ở các Điều 69 và
70, các quốc gia thành viên, trừ khi có thỏa thuận khác, ghi vào đó một điều
khoản trù định các biện pháp mà mình phải thi hành để giảm đến mức tối thiểu
các khả năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng thỏa thuận, cũng như thủ tục
phải tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng.
ĐIỀU 298. Những ngoại lệ không bắt buộc đối với việc áp dụng
Mục 2
1. Khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất
kỳ thời điểm nào sau đó, với điều kiện không phương hại đến các nghĩa vụ phát
sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không chấp
nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các tranh chấp đã được trù định ở Mục 2
có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây:
a) i. Các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các
Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay các
vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, nghĩa là khi một tranh chấp
như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực và nếu các bên không đi đến một thỏa
thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời hạn hợp lý, thì quốc gia
đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó
ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của phụ lục V, và đương nhiên
không thể đưa ra xét theo thủ tục này một vụ tranh chấp nào đòi hỏi nhất thiết
phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được giải quyết liên quan đến chủ
quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban hòa giải đã trình bày báo cáo của mình,
báo cáo phải nói rõ được lý do, thì các bên thương lượng về một thỏa thuận trên
cơ sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương lượng không thành, thì các bên, qua
sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo các thủ tục đã được quy định ở Mục
2, trừ khi các bên có thỏa thuận khác;
iii. Điểm nhỏ này không áp dụng đối với các vụ tranh chấp
liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển đã được một thỏa thuận giữa
các bên giải quyết dứt khoát, cũng như đối với các vụ tranh chấp phải được giải
quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai bên hay nhiều bên có tính chất ràng buộc
các bên;
b) Các vụ tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể
cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được sử dụng
cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp liên quan đến
các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện trong việc thi hành các quyền
thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3, đã loại trừ khỏi
thẩm quyền của một Tòa án;
c) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong
khi thi hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có
trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết định xóa vấn đề trong
chương trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết tranh
chấp của họ bằng các phương pháp đã qui định trong Công ước.
2. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1,
thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa ra một vụ
tranh chấp mà tuyên bố này đã loại trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải quyết nào
đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1,
thì không thể đưa ra một vụ tranh chấp, nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại
trừ, ra trước một thủ tục nào đó trong số các thủ tục đã được trù định trong
Công ước, nếu không có sự thỏa thuận của quốc gi thành viên đang tranh chấp với
mình.
4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản
1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh
chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh
chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố
này.
5. Một tuyên bố mới hay một thông báo rút lui một tuyên bố
không hề có tác động đến thủ tục đang áp dụng trước một toàn án xét xử theo
đúng điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Các tuyên bố hay các thông báo rút lui các tuyên bố nói ở
điều này phải được gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng thư ký
Liên hợp quốc chuyển các bản sao các văn kiện đó cho các quốc gia thành viên.
ĐIỀU 299. Quyền của các bên trong việc thỏa thuận các thủ tục
1. Bất kỳ tranh chấp nào khi đã bị loại khỏi các thủ tục giải
quyết các tranh chấp được trù định ở Mục 2 theo Điều 297 hoặc bằng một tuyên bố
theo đúng Điều 298, thì chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ tục này
qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp.
2. Không một quy định nào của mục này đụng chạm đến quyền của
các bên tranh chấp trong việc thỏa thuận sử dụng một thủ tục khác để giải quyết
vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ tranh chấp bằng sự giàn xếp ổn thỏa.
[1] Bản dịch tiếng Việt của Bộ Ngoại giao.
Theo
thuvienphapluat
Nhận xét
Đăng nhận xét