CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1] (phần 2)
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN[1]
![]() |
Trung Quốc luôn tìm mọi cách để biến yêu sách vùng biển "đường lưỡi bò" phi pháp thành thực tế. Nguồn: internet |
PHẦN X
QUYỀN CỦA CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN ĐI RA BIỂN VÀ TỪ BIỂN
VÀO, VÀ TỰ DO QUÁ CẢNH
ĐIỀU 124. Sử dụng các thuật ngữ
1. Trong Công ước:
a) “Quốc gia không có biển” (Etat sans littoral) có nghĩa là
mọi quốc gia không có bờ biển;
b) “Quốc gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có
hay không có bờ biển, ở giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận
chuyển quá cảnh phải đi qua quốc gia đó;
c) “Vận chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh
người, hàng hóa, của cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay
nhiều quốc gia quá cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không
có việc chuyển tải, việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay đổi
phương thức vận chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh hay bắt đầu
kết thúc trên lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển;
d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy
trên hồ, trên sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa phương bắt buộc, là những người
khuân vác hoặc súc vật kéo.
2. Các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh có thể
thỏa thuận xếp vào các phương tiện vận chuyển các ống dẫn và ống dẫn khí đốt và
các phương tiện khác ngoài các phương tiện đã nêu ở khoản 1.
ĐIỀU 125. Quyền đi ra biển và từ biển vào, và tự do quá cảnh
1. Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và từ biển
vào để sử dụng các quyền được trù định trong Công ước, kể cả các quyền liên
quan đến tự do trên biển cả và liên quan đến di sản chung của loài người. Vì mục
đích ấy, các quốc gia đó được hưởng tự do quá cảnh qua lãnh thổ của các quốc
gia quá cảnh bằng mọi phương tiện vận chuyển.
2. Các điều kiện và thể thức sử dụng quyền tự do quá cảnh được
thỏa thuận giữa các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh hữu quan
qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực.
3. Trong việc sử dụng chủ quyền toàn vẹn trên lãnh thổ của
mình, các quốc gia quá cảnh có quyền ra tất cả mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo
rằng, các quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định trong phần này vì lợi
ích của quốc gia không có biển, không hề đụng chạm đến lợi ích chính đáng của
quốc gia quá cảnh.
ĐIỀU 126. Loại trừ việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc
Các quy định của Công ước cũng như các điều ước đặc biệt
liên quan đến việc sử dụng quyền ra biển và đi từ biển vào trù định các quyền
và các điều kiện thuận lợi cho các quốc gia không có biển do vị trí địa lý đặc
biệt của quốc gia đó, bị loại trừ khỏi việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc.
ĐIỀU 127. Các thuế quan, thuế và các khoản lệ phí khác
1. Việc vận chuyển quá cảnh không phải nộp thuế quan, thuế
hay mọi khoản lệ phí khác, ngoài các khoản thuế trả cho các dịch vụ đặc biệt
liên quan đến việc vận chuyển đó.
2. Các phương tiện vận chuyển quá cảnh và các điều kiện thuận
lợi khác cho việc quá cảnh dành cho quốc gia không có biển và được quốc gia này
sử dụng, không phải chịu các thứ thuế hay các khoản lệ phí cao hơn các khoản phải
trả cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển của quốc gia quá cảnh.
ĐIỀU 128. Vùng miễn thuế và các điều kiện thuận lợi khác về
hải quan Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh, vùng miễn thuế hay các
điều kiện hải quan thuận lợi khác có thể trù định ở cảng vào và cảng ra của các
quốc gia quá cảnh, qua con đường thỏa thuận giữa quốc gia này và các quốc gia
không có biển.
ĐIỀU 129. Sự hợp tác trong việc đóng và cải tiến các phương
tiện vận chuyển
Khi trong các quốc gia quá cảnh không có các phương tiện vận
chuyển cho phép sử dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc khi các phương tiện
hiện có, kể cả các trang thiết bị cảng, không thích đáng về bất cứ một phương
diện nào, quốc gia quá cảnh và quốc gia không có biển hữu quan có thể hợp tác để
đóng hay cải tiến các phương tiện hiện có.
ĐIỀU 130. Các biện pháp nhằm tránh tình trạng chậm trễ hay
những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc vận chuyển quá cảnh, hay nhằm để
loại trừ các nguyên nhân gây ra tình trạng đó
1. Quốc gia quá cảnh thi hành mọi biện pháp thích hợp để
tránh mọi tình trạng chậm trễ hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc
vận chuyển quá cảnh.
2. Các nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia quá cảnh
không có biển, trong trường hợp có tình trạng chậm trễ hay khó khăn, hợp tác để
nhanh chóng loại trừ các nguyên nhân của tình trạng đó.
ĐIỀU 131. Việc đối xử bình đẳng ở trong các cảng biển
Các tàu mang cờ của một quốc gia không có biển được hưởng
trong các cảng biển sự đối xử bình đẳng như các tàu nước ngoài khác.
ĐIỀU 132. Việc dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn
cho việc quá cảnh
Công ước không có hàm ý rút bớt những điều kiện thuận lợi rộng
rãi hơn những điều mà Công ước đã trù định và đã được sự thỏa thuận giữa các quốc
gia thành viên hay đã được một quốc gia thành viên chấp nhận. Công ước cũng tuyệt
đối không cấm các quốc gia thành viên trong tương lai dành những điều kiện thuận
lợi rộng rãi hơn.
Phần XI
VÙNG
Mục 1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 133. Sử dụng các thuật ngữ
Trong phần này
a) “Tài nguyên” (ressources) là tất cả các tài nguyên khoáng
sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí in situ (ở ngay tại chỗ) trong Vùng, nằm ở đáy biển
hay lòng đất dưới đáy biển này, kể cả các khối đá kim (nodules polymétalliques);
b) Các tài nguyên, một khi đã được khai thác từ Vùng, được gọi
là “các khoáng sản” (minéraux)
ĐIỀU 134. Phạm vi áp dụng của phần này
1. Phần này được áp dụng đối với Vùng
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh.
3. Việc gửi lưu chiểu các bản đồ hay bản kê các tọa độ địa
lý xác định vị trí các ranh giới nêu ở Điều 1, khoản 1, cũng như việc công bố
các bản đồ hay bản kê tọa độ đó, do phần VI điều chỉnh.
4. Không một điều nào của quy định này đụng chạm đến việc
xác đinh ranh giới ngoài của thềm lục địa theo đúng phần VI hay đến hiệu lực của
các điều ước liên quan đến việc hoạch định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển
tiếp liền hay đối diện nhau.
ĐIỀU 135. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời nói trên
Phần này cũng như các quyền được hưởng hay được thực hiện
theo phần này không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên Vùng
hay đến chế độ pháp lý của vùng trời ở phía trên vùng nước này.
Mục 2. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ VÙNG
ĐIỀU 136. Di sản chung của loài người
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người.
ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên của nó
1. Không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền
hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài
nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không một tự nhiên nhân hay pháp
nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của
Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc quyền
chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt nào được thừa nhận.
2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt
có tất cả các quyền đối với các tài nguyên của Vùng. Những tài nguyên này không
thể chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ có
thể chuyển nhượng theo đúng phần này và phù hợp với các nguyên tắc, quy định và
các thủ tục của Cơ quan quyền lực.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được
đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai
thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực
hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.
ĐIỀU 138. Cách xử sự chung của các quốc gia liên quan đến
Vùng
Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân
theo phần này, các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các
quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình và an
ninh, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau.
ĐIỀU 139. Nghĩa vụ chăm lo đến việc tôn trọng Công ước và
trách nhiệm trong trường hợp có thiệt hại
1. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ quan tâm đến việc bảo
đảm cho các hoạt động trong Vùng, dù do bản thân các quốc gia đó, do các xí
nghiệp Nhà nước của họ hoặc do các tự nhiên nhân hay pháp nhân mang quốc tịch của
họ hoặc chịu sự kiểm soát thật sự của họ hay các công dân của họ, được tiến
hành theo đúng với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa vụ như vậy với
các hoạt động trong vùng.
2. Không phương hại đến các quy tắc của pháp luật quốc tế và
đến Điều 22 của Phụ lục III, một quốc gia thành viên hay một tổ chức quốc tế phải
chịu những trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót của mình đối với những
nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần này; các quốc gia thành viên hay các tổ
chức quốc tế khi cùng hành động thì phải liên đới chịu trách nhiệm. Tuy nhiên,
quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót
như vậy của một người do quốc gia này bảo trợ theo Điều 153; khoản 2, điểm b, nếu
quốc gia này đã thi hành tất cả các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo đảm
việc tôn trọng thật sự phần này của các phụ lục có liên quan, như đã trù định
trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4 khoản 4 của Phụ lục III.
3. Các quốc gia thành viên là hội viên của các tổ chức quốc
tế cần thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc áp dụng điều này đối
với các tổ chức đó.
ĐIỀU 140. Lợi ích của loài người
1. Các hoạt động trong vùng được tiến hành, như đã được ghi
nhận rõ ràng trong phần này, là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ
thuộc vào vị trí của các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển, và
có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển và của
các dân tộc chưa giành được nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được
Liên hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các nghị quyết tương ứng
khác của Đại hội đồng.
2. Cơ quan quyền lực bảo đảm việc phân chia công bằng, trên
cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế
khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng qua một bộ máy thích hợp theo đúng
Điều 160 khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại.
ĐIỀU 141. Sử dụng vùng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình
Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay
không có biển, sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình, không phân biệt đối
xử và không phương hại đến các điều quy định khác của phần này.
ĐIỀU 142. Các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia
ven biển
1. Trong trường hợp các vỉa tài nguyên của Vùng trải rộng ra
ngoài ranh giới của Vùng, thì những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng được mở
rộng như thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia
ven biển có quyền tài phán đối với các vỉa tài nguyên nói trên.
2. Một phương thức tham khảo ý kiến với quốc gia hữu quan,
và nhất là phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh bất kỳ sự xâm phạm nào
đến các quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà các hoạt động tiến hành
trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên ở phía trong các ranh
giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven biển thì cần phải có sự
đồng ý trước của quốc gia này.
3. Phần này cũng như các quyền được thừa nhận hay được sử dụng
theo phần này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia ven biển được thi hành những
biện pháp phù hợp với các quy định tương ứng của phần XII có thể cần thiết để
ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm trọng và sắp xảy ra đối
với vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi ích có liên quan do một tình trạng
ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh từ tất cả các hoạt động tiến hành
trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác gây ra bởi các hoạt động đó.
ĐIỀU 143. Việc nghiên cứu khoa học biển
1. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng được tiến hành
nhằm những mục đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích của toàn thể loài người
theo đúng phần XIII.
2. Cơ quan quyền lực có thể thực hiện các công trình nghiên
cứu khoa học biển đối với Vùng và các tài nguyên của Vùng và có thể ký các hợp
đồng nhằm mục đích này. Cơ quan quyền lực tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích
việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng; phối hợp, phổ biến các kết quả của
các công trình nghiên cứu và phân tích đó khi chúng sẵn sàng sử dụng được.
3. Các quốc gia thành viên có thể tiến hành các công trình
nghiên cứu khoa học biển trong Vùng. Các quốc gia này tạo điều kiện dễ dàng cho
việc hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học biển trong vùng, bằng cách:
a) Tham gia các chương trình quốc tế và khuyến khích việc hợp
tác về nghiên cứu khoa học biển do nhân viên của các nước và nhân viên của Cơ
quan quyền lực thực hiện;
b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua
trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các
tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc
gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ;
ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ
quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong
Vùng;
c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và
phân tích, khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan
quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.
ĐIỀU 144. Chuyển giao kỹ thuật.
1. Theo đúng Công ước, Cơ quan quyền lực thi hành các biện
pháp để:
a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức khoa học liên quan đến
các hoạt động tiến hành trong Vùng; và
b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc chuyển giao
cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến thức khoa học nói trên,
sao cho mọi quốc gia thành viên đều được hưởng.
2. Vì mục đích này, Cơ quan quyền lực và các quốc gia thành
viên hợp tác để thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật và các kiến thức khoa học
liên quan đến những hoạt động tiến hành trong Vùng sao cho Xí nghiệp và tất cả
các quốc gia thành viên đều có thể được hưởng. Đặc biệt, Cơ quan quyền lực và
các quốc gia thành viên đề xuất hoặc khuyến khích:
a) Các chương trình để chuyển giao cho Xí nghiệp và cho các
quốc gia đang phát triển các kỹ thuật liên quan đến các hoạt động tiến hành
trong Vùng, nhất là trù định cho Xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển, những
điều kiện thuận lợi để nắm được các kỹ thuật thích hợp theo những thể thức và
các điều kiện công bằng hợp lý;
b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của
Xí nghiệp và những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt
là tạo điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các quốc gia này được đào tạo
về khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia đầy đủ vào các hoạt động
tiến hành trong vùng.
ĐIỀU 145. Bảo vệ môi trường biển
Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, các biện pháp cần
thiết phải được thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có hiệu quả môi trường biển
chống lại những tác hại có thể do các hoạt động đó gây ra. Vì mục đích đó, Cơ
quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp, đặc biệt nhằm
để:
a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển,
kể cả vùng duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác đe dọa môi trường đó,
cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của môi
trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi trường
chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, đào, loại bỏ
các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, ống dẫn và các
phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và
phòng ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển.
ĐIỀU 146. Bảo vệ sự sống của con người
Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, những biện pháp
cần thiết phải được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả sự sống của con
người. Vì mục đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục
thích hợp để bổ sung cho pháp luật quốc tế hiện tại như đã ghi trong các hiệp ước
về vấn đề này.
ĐIỀU 147. Sự phù hợp của các biện pháp được tiến hành ở
trong Vùng và các hoạt động khác đang thực hiện trong môi trường biển
1. Các hoạt động được tiến hành trong Vùng cần phải được
quan tâm một cách hợp lý đến các hoạt động khác đang được thực hiện trong môi
trường biển.
2. Các điều kiện sau đây được áp dụng cho các thiết bị được
sử dụng cho các hoạt động tiến hành trong Vùng:
a) Các thiết bị này chỉ được xây lắp, bố trí và tháo gỡ theo
đúng với phần này và trong các điều kiện do các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực đề ra. Việc xây lắp, bố trí và tháo gỡ chúng phải được thông
báo đúng thủ tục và cần phải duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự
có mặt của các thiết bị đó;
b) Các thiết bị này không được đặt ở các vị trí có thể gây
trở ngại cho việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận là thiết yếu đối
với hàng hải quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật độ đánh cá tập
trung;
c) Các thiết bị này được các vùng an toàn bao quanh; các
vùng an toàn này được đánh dấu một cách thích hợp để bảo đảm an toàn cho bản
thân và các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí của các Vùng an
toàn này được xác định sao cho chúng không tạo thành một vành đai cản trở các
tàu thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp, hay cản trở giao
thông trên các đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được dùng vào những mục đích hoàn hòa
bình;
e) Các thiết bị này không có quy chế của các đảo. Chúng
không có lãnh hải riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc hoạch định
ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi trường biển được tiến
hành với sự chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến hành trong Vùng.
ĐIỀU 148. Sự tham gia của các quốc gia đang phát triển vào
các hoạt động tiến hành trong Vùng
Việc tham gia của các quốc gia đang phát triển vào các hoạt
động tiến hành trong Vùng được khuyến khích, như đã được trù định rõ ràng trong
phần này, với sự chú ý thích đáng đến các nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các
quốc gia này, và nhất là nhu cầu đặc biệt của các quốc gia đang phát triển
không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, cần vượt qua những trở ngại
do vị trí bất lợi của họ gây ra, đặc biệt là vì họ ở xa Vùng và việc họ đến
Vùng và rời khỏi Vùng đều khó khăn.
ĐIỀU 149. Các di vật khảo cổ và lịch sử
Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy ở trong Vùng,
đều được bảo tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt
quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ hoặc của quốc
gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ.
Mục 3. KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN CỦA VÙNG
ĐIỀU 150. Chính sách chung liên quan đến các hoạt động tiến
hành trong Vùng
Các hoạt động tiến hành trong Vùng, như đã được trù định rõ
ràng trong phần này, phải làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hài
hòa nền kinh tế thế giới và sự mở rộng một cách cân đối nền thương mại quốc tế,
thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển toàn diện của tất cả các quốc gia, và
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và nhằm:
a) Khai thác các tài nguyên của Vùng;
b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc chắn và hợp lý các
tài nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt động tiến hành
trong Vùng có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo đúng những nguyên tắc
đúng đắn về bảo tồn.
c) Tăng cường các khả năng tham gia vào các hoạt động này, đặc
biệt là phù hợp với Điều 144 và Điều 148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự phần vào các thu nhập
và việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển
theo đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác
từ Vùng để cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp
cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định
đối với các khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các
nguồn khác, có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo đảm sự
cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã
hội và kinh tế hay địa lý của họ như thế nào, có những khả năng to lớn hơn
trong việc tham gia khai thác các tài nguyên của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền
hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151,
khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của
họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác
trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này, trong
chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động tiến hành trong Vùng
gây ra;
i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của toàn thể loài người;
j) Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc với các thị trường để
nhập khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên
được rút ra từ những khoáng sản này, không thuận lợi hơn những điều kiện thuận
lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và các sản phẩm đầu tiên
khai thác được từ các nguồn khác.
ĐIỀU 151. Chính sách về sản xuất
1. a) Không phương hại đến những mục tiêu đã được nêu ở Điều
150 và nhằm áp dụng điểm h) của điều đó, qua trung gian của các cấp thẩm quyền
hiện có, hay nếu cần thì, trong khuôn khổ của những dàn xếp hay hiệp định mới với
sự tham gia của tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ,
Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp cần thiết để tạo thuận lợi cho sự gia
tăng, sự hoạt động có hiệu quả và sự ổn định của các thị trường đối với những sản
phẩm đầu tiên rút ra từ các khoáng sản khai thác trong Vùng, với giá cả có lợi
cho người sản xuất và đúng mức đối với người tiêu thụ. Tất cả các quốc gia
thành viên hợp tác vì mục đích này.
b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị sản
phẩm nào bàn về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó, tất cả các bên hữu quan,
kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự. Cơ quan quyền lực có quyền
trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp định nào đạt được khi kết
thúc những hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có liên quan đến việc sản xuất
trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ cơ quan nào được lập ra theo
dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng các quy tắc có liên quan đến cơ
quan đó.
c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa vụ được giao phó
theo các dàn xếp hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho các dàn xếp hay hiệp
định đó được áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với toàn bộ việc
sản xuất các khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như thế, Cơ quan quyền lực
hành động một cách phù hợp với các điều khoản của các hợp đồng hiện hành và các
quy định của những kế hoạch làm việc của Xí nghiệp đã được chuẩn y.
2. a) Trong giai đoạn quá độ được định rõ ở khoản 3, việc sản
xuất hàng hóa chỉ có thể bắt đầu dưới danh nghĩa một kế hoạch làm việc đã được
chuẩn y, nếu người khai thác đã xin phép Cơ quan quyền lực và đã được Cơ quan
quyền lực cho phép sản xuất; Việc cho phép này không thể xin hay cấp trước thời
hạn dự kiến bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế oạch làm việc quá 5 năm, trừ khi
Cơ quan quyền lực quy định một thời hạn khác trong các quy tắc, quy định và thủ
tục của mình, căn cứ vào tính chất và tiến trình thực hiện các dự án;
b) Trong đơn xin phép của mình, người khai thác ghi rõ số lượng
kền hàng năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Đơn này
gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép, sẽ được người khai thác
thực hiện và đã được tính toán một cách hợp lý để cho phép người khai thác bắt
đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự định.
c) Để áp dụng các điểm a và b, Cơ quan quyền lực định ra các
quy phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép sản xuất theo số lượng
được ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này và những số lượng được
phép trước đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất nào trong giai đoạn
quá độ, mức cao nhất về sản lượng kền được tính toán theo đúng khoản 4 cho năm
mà giấy phép được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở thành bộ phận hữu
cơ của kế hoạch làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của người khai thác bị từ chối theo điểm
d, người này bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực.
3. Giai đoạn quá độ bắt đầu 5 năm trước ngày mùng 1 tháng
Giêng của năm dự tính bắt đầu việc sản xuất hàng hóa đầu tiên với danh nghĩa của
một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Trong trường hợp việc bắt đầu sản xuất
hàng hóa bị hoãn đến một năm nào đó sau năm đã dự kiến thì thời điểm bắt đầu của
giai đoạn quá độ và mức tối đa của sản lượng tính toán ban đầu được điều chỉnh
lại cho phù hợp. Giai đoạn quá độ kết thúc sau 25 năm, hoặc cho đến khi kết
thúc Hội nghị xét duyệt lại được nêu ở Điều 155, hay cho đến ngày mà các thỏa
thuận hay hiệp định mới đề cập ở khoản 1 có hiệu lực, thời hạn nào gần nhất thì
được sử dụng, nếu các thỏa thuận hay hiệp định đó đã trở nên hết hiệu lực hay
không còn tác dụng vì một lý do nào đó, thì những quyền được trù định trong điều
này đối với phần còn lại của giai đoạn quá độ được trao lại cho Cơ quan quyền lực.
4. a) Mức sản xuất tối đa có hiệu lực cho bất cứ một năm nào
của giai đoạn quá độ có được do tổng của:
i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng
tiêu thụ kền cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị của
đường biểu diễn đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá trị
đó được tính theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng
tiêu thụ kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá trị của đường biểu diễn
này cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị này được
tính toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a này:
i. Những giá trị của đường biểu diễn xu hướng được sử dụng để
tính toán mức sản lượng kền tối đa là những giá trị tiêu thụ kền hàng năm thể
hiện trên một đường biểu diễn xu hướng độc lập nên trong năm cấp giấy phép sản
xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra theo phép hồi quy tuyến tính lô-ga-rít các
số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự hàng năm tương ứng với giai đoạn 15 năm gần
nhất mà người ta có các số liệu, thời gian được coi là biến số thiên độc lập.
Đường biểu diễn xu hướng này được gọi là đường biểu diễn xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất tăng hàng năm được thể hiện trên đường biểu
diễn xu hướng dưới 30% để xác định các số lượng đã nói ở điểm a, người ta thay
đường biểu diễn này bằng một đường biểu diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt đường
biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm biểu thị giá trị tiêu thụ cho năm đầu của thời
kỳ 15 năm được xem xét, và để cho độ dốc của nó phù hợp với một sự gia tăng
hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản lượng tối đa được quy định cho một năm nào đó của
giai đoạn quá độ trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể vượt quá số chênh lệch
giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó và giá trị
của đường biểu diễn này cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ.
5. Đối với mức sản xuất ban đầu của Xí nghiệp, Cơ quan quyền
lực dành cho Xí nghiệp một số lượng 38.000 tấn kền trên số lượng được ấn định
là sản lượng tối đa theo đúng khoản 4;
6. a) Trong một năm nào đó, một người khai thác có thể sản
xuất dưới mức sản xuất hàng năm các khoáng sản lấy từ các khối đa kim đã ghi
trong giấy phép sản xuất của mình hoặc vượt qua mức đó, tối đa là 8%, miễn là tổng
sản lượng không vượt quá sản lượng ghi trong giấy phép. Bất kỳ sự vượt quá nào
trong khoảng từ 8% đến 20% đối với một năm nào đó hay bất kỳ sự vượt quá nào đối
với một năm tiếp theo 2 năm liên tiếp trong đó mức sản xuất ấn định bị vượt, đều
phải thương lượng với Cơ quan quyền lực; Cơ
quan quyền lực có thể đòi người khai thác phải xin một giấy phép sản xuất
bổ sung.
b) Cơ quan quyền lực chỉ xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ
sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các đơn xin sản xuất đang chờ giải
quyết và đã xem xét đúng mức đến các khả năng còn có những đơn vị khác nữa.
Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ quan quyền lực là
trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt quá tổng sản lượng
được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan quyền lực không
cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối lượng vượt quá
46.500 tấn kền trong một năm.
7. Sản lượng các kim loại khác như đồng, cô-ban và măng-gan
rút ra từ các khối đa kim được khai thác theo một giấy phép sản xuất, không được
vượt quá mức có thể đạt được, nếu như những người khai thác đã lấy ra từ các khối
đa kim này số lượng kền tối đa tính đúng theo điều này. Cơ quan quyền lực định
ra các quy tắc, quy định và thủ tục theo đúng Điều 17 của Phụ lục III, trong đó
có trù định các thể thức thi hành những khoản này.
8. Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các tập quán kinh tế
không chính đáng được trù định trong khuôn khổ và các hiệp định thương mại nhiều
bên tương ứng, được áp dụng vào công việc thăm dò và khai thác khoáng sản trong
Vùng. Để giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi điều quy định này, các quốc
gia thành viên tham gia vào các hiệp định thương mại nhiều bên nói trên dựa vào
các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù định trong các hiệp định đó.
9. Cơ quan có quyền hạn chế mức sản xuất các khoáng sản
trong Vùng, ngoài các khoáng sản rút ra từ các khối đa kim, theo các điều kiện
và phương pháp mà Cơ quan quyền lực cho là thích hợp, bằng cách thông qua các
quy tắc theo đúng Điều 161, khoản 8.
10. Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa trên ý kiến của Ủy ban
kế hoạch hóa kinh tế, Đại hội đồng định ra một chế độ bù trừ hoặc thi hành các
biện pháp trợ giúp khác, có tác dụng tạo điều kiện dễ dàng cho việc điều chỉnh
kinh tế, kể cả việc hợp tác với các cơ quan chuyên trách hay các tổ chức quốc tế
khác, đề giúp đỡ các nước đang phát triển mà nền kinh tế và thu nhập xuất khẩu
bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước những tác động bất lợi do một khoáng sản trong
số các khoáng sản được khai thác từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu
loại khoáng sản đuộc khai thác từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu loại
khoáng sản này của họ giảm sút, trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm sút khối
lượng này do các hoạt động trong Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực tiến hành
nghiên cứu về những vấn đề của các quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất,
nhằm giảm đến mức tối thiểu những khó khăn của họ, và để giúp đỡ họ tiến hành
điều chỉnh kinh tế theo yêu cầu của họ.
ĐIỀU 152. Việc thi hành các quyền hạn và chức năng
1. Cơ quan quyền lực tránh mọi sự phân biệt đối xử trong khi
thi hành quyền hạn và chức năng của mình, nhất là khi Cơ quan quyền lực cho
phép tiến hành các hoạt động trong Vùng.
2. Tuy nhiên, theo các điều được quy định rõ ràng của phần
này, Cơ quan quyền lực có thể dành sự qua tâm đặc biệt đối với các quốc gia
đang phát triển, và đặc biệt là những quốc gia không có biển hay bất lợi về địa
lý trong số các quốc gia phát triển này.
ĐIỀU 153. Hệ thống thăm dò và khai thác
1. Các hợp đồng tiến hành trong Vùng được Cơ quan quyền lực
thay mặt cho toàn thể loài người tổ chức, thực hiện và kiểm soát theo đúng điều
này, và theo đúng các quy định tương ứng khác của phần này và phụ lục liên quan
đến các hoạt động đó, cũng như, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực.
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng khoản 3 do
các thành phần sau đây tiến hành:
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ quan quyền lực, các quốc gia thành viên
hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của
các quốc gia thành viên hay do quốc gia đó hoặc các công dân của các quốc gia
đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự bảo trợ của các quốc gia này hoặc của bất
kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể trên đáp ứng các điều kiện được quy định
trong phần này và ở Phụ lục III;
3. Các hoạt động tiến hành trong Vùng phải theo một kế hoạch
làm việc chính thức và bằng văn bản, được lập ra theo đúng phụ lục III và được
Hội đồng chuẩn y, sau khi được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật xem xét. Trong trường
hợp các hoạt động tiến hành trong vùng theo giấy phép của Cơ quan quyền lực do
các thể hay cá nhân nói ở khoản 2, điểm b thực hiện, kế hoạch làm việc mang
hình thức của một hợp đồng, theo đúng Điều 3 của Phụ lục III. Hợp đồng có thể
trù định các thỏa thuận về liên doanh theo đúng Điều 11 của Phụ lục III.
4. Cơ quan quyền lực thực hiện kiểm soát cần thiết đối với
các hoạt động tiến hành trong Vùng, để bảo đảm tôn trọng các quy định tương ứng
của phần này và của các phụ lục có liên quan, các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực, cũng như, các kế hoạch làm việc được chuẩn y theo đúng
khoản 3. Các quốc gia thành viên giúp đỡ Cơ quan quyền lực bằng cách thi hành tất
cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm tôn trọng các văn bản này theo đúng Điều
139.
5. Bất kỳ lúc nào, Cơ quan quyền lực cũng có quyền thi hành
mọi biện pháp được trù định trong phần này để bảo đảm tôn trọng phần này và để
có thể thi hành các chức năng kiểm soát và ra quy định của mình theo phần này
hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực có quyền kiểm tra tất cả các thiết bị
được sử dụng để tiến hành các hoạt động trong Vùng và được đặt ở trong Vùng.
6. Mọi hợp đồng được ký kết theo đúng khoản 3 đều trù định
việc bảo đảm danh nghĩa.
Do vậy, chỉ có thể xét lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng
theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
ĐIỀU 154. Xem xét định kỳ
Cứ 5 năm một lần kể từ khi Công ước có hiệu lực, Đại hội đồng
lại tiến hành một cuộc xem xét chung và có hệ thống xem chế độ quốc tế của Vùng
do Công ước lập ra đã hoạt động trong thực tiễn như thế nào. Dựa vào kết quả của
cuộc xem xét này, Đại hội đồng có thể thi hành hay khuyến nghị cho các cơ quan
khác thi hành các biện pháp phù hợp với các quy định, thủ tục được trù định
trong phần này và các phụ lục có liên quan và cho phép cải tiến sự hoạt động của
chế độ.
ĐIỀU 155. Hội nghị xét duyệt lại
1. 15 năm sau ngày mùng 1 tháng Giêng của năm bắt đầu sản xuất
hàng hóa đầu tiên theo một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y, Đại hội đồng sẽ
triệu tập một hội nghị để xét duyệt lại các quy định của phần này và các phụ lục
có liên quan, điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng. Dưới
ánh sáng của kinh nghiệm thu được trong giai đoạn qua, hội nghị sẽ xem xét cụ
thể:
a) Các quy định trong phần này điều chỉnh hệ thống thăm dò
và khai thác tài nguyên của Vùng có đạt được những mục tiêu của chúng về mọi mặt
không, và nhất là xem toàn thể loài người có được hưởng lợi do các quy định đó
đem lại không;
b) Xem trong thời hạn 15 năm này, các khu vực dành riêng có
được khai thác một cách có hiệu quả và cân đối so với các khu vực không được
dành riêng không;
c) Xem việc khai thác và sử dụng Vùng và các tài nguyên của
Vùng có được tiến hành theo cách tạo thuận lợi cho việc phát triển hài hòa của
nền kinh tế thế giới và việc mở rộng cân đối nền thương mại quốc tế không;
d) Xem sự độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng
được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các chính sách đã nêu ở các Điều 150 và 151 có được
tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho phép phân chia một cách công bằng những mối
lợi thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, với sự quan tâm đặc biệt đến
lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển không.
2. Hội nghị xét duyệt quan tâm đến việc giữ vững nguyên tắc
di sản chung của loài người, chế độ quốc tế nhằm khai thác công bằng di sản đó
vì lợi ích của tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển,
và sự tồn tại của một Cơ quan quyền lực có trách nhiệm tổ chức tiến hành và kiểm
soát các hoạt động trong vùng. Hội nghị cũng quan tâm đến việc duy trì các
nguyên tắc đã được nêu trong phần này có liên quan đến việc loại trừ mọi yêu
sách và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một khu vực nào đó của Vùng, đến các quyền
của các quốc gia và thái độ chung của họ có quan hệ đến Vùng, cũng như việc
tham gia của họ vào các hoạt động được tiến hành trong Vùng theo đúng Công ước,
đến việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc chỉ sử dụng
Vùng vào những mục đích hòa bình, những phương diện kinh tế của các hoạt động
tiến hành trong Vùng, việc nghiên cứu khoa học biển, việc chuyển giao kỹ thuật,
việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ sự sống của con người, các quyền của các
quốc gia ven biển, chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời phía trên Vùng và
sự phù hợp giữa các hoạt động tiến hành trong Vùng và các hoạt động khác trong
môi trường biển.
3. Thủ tục ra quyết định áp dụng trong Hội nghị cũng là thủ
tục đã áp dụng ở Hội nghị về luật biển lần thứ ba của Liên hợp quốc. Hội nghị sẽ
cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về tất cả các điểm sửa đổi nếu có, bằng
consensus (thỏa thuận), và chỉ biểu quyết các vấn đề đó, sau khi đã cố gắng hết
sức mà không đi đến consensus (thỏa thuận).
4. Năm năm sau khi bắt đầu hội nghị xét duyệt lại, nếu không
đi đến được thỏa thuận về hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng thì
trong vòng 12 tháng sau đó, Hội nghị có thể quyết định theo đa số ba phần tư
các quốc gia thành viên thông qua và đưa ra cho các quốc gia thành viên phê chuẩn
hay tham gia đối với những điều sửa đổi dẫn đến sự thay đổi hay sửa đổi hệ thống,
mà Hội nghị xét thấy cần thiết và thích hợp. Những điều sửa đổi này sẽ có hiệu
lực đối với tất cả các quốc gia thành viên 12 tháng sau ngày gửi lưu chiểu những
văn kiện phê chuẩn hay tham gia ba phần tư quốc gia thành viên.
5. Những điểm sửa đổi được hội nghị xét duyệt lại thông qua
điều này, sẽ không đụng chạm đến các quyền đã có được theo các hợp đồng hiện
hành.
Mục 4. CƠ QUAN QUYỀN LỰC
TIỂU MỤC A. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 156. Thành lập Cơ quan quyền lực
1. Một Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển được lập ra, hoạt
động theo sự điều chỉnh của phần này.
2. Tất cả các quốc gia thành viên là những thành viên ipso
facto (tất nhiên) của Cơ quan quyền lực.
3. Các quan sát viên ở Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc
về luật biển đã ký vào Định ước cuối cùng và không nằm trong phạm vi Điều 305,
khoản 1, điểm c, d, e hay f có quyền tham dự vào các công việc của Cơ quan quyền
lực với tư cách quan sát viên theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ
quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền lực đặt trụ sở ở Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền lực có thể lập ra các trung tâm hay các cơ
quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần thiết để thi hành chức năng của mình.
ĐIỀU 157. Tính chất của Cơ quan quyền lực và các nguyên tắc
cơ bản điều chỉnh hoạt động của cơ quan này
1. Cơ quan quyền lực là tổ chức mà qua đó, các quốc gia
thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là
nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo đúng phần này.
2. Cơ quan quyền lực nắm các quyền hạn và chức năng Công ước
giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan quyền lực có những quyền hạn và chức năng
nói trên đối với những hoạt động tiến hành trong Vùng.
3. Cơ quan quyền lực được thành lập trên nguyên tắc bình đẳng
về chủ quyền của tất cả các thành viên.
4. Để bảo đảm cho mỗi thành viên các quyền và lợi ích do tư
cách thành viên mà có, tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực phải làm
tròn một cách trung thực những nghĩa vụ của họ theo phần này.
ĐIỀU 158. Các cơ quan của Cơ quan quyền lực
1. Một đại hội đồng, một Hội đồng và một Ban thư ký được lập
ra là những cơ quan chính của Cơ quan quyền lực.
2. Một Xí nghiệp được lập ra là cơ quan mà thông qua đó, cơ
quan quyền lực thi hành các chức năng được nêu ở Điều 170, khoản 1.
3. Các cơ quan phụ trợ được coi là cần thiết có thể được
thành lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan chính của Cơ quan quyền lực và Xí nghiệp có
nhiệm vụ thi hành những quyền hạn và chức năng đã được giao phó. Trong khi thi
hành các quyền hạn và chức năng này, mỗi cơ quan tránh những hành động có thể đụng
cham hoặc làm hại cho việc thi hành các quyền hạn và chức năng riêng đã được
giao phó cho một cơ quan khác.
TIỂU MỤC B. ĐẠI HỘI ĐỒNG
ĐIỀU 159. Cơ cấu, thủ tục và biểu quyết
1. Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan
quyền lực. Mỗi thành viên có một đại diện ở Đại hội đồng, người này có thể có
những người thay thế và cố vấn đi theo.
2. Đại hội đồng họp thường kỳ hàng năm, và họp bất thường
theo quyết định của Đại hội đồng hay do Tổng thư ký triệu tập theo yêu cầu của
Hội đồng hay của đa số các thành viên của Cơ quan quyền lực.
3. Các khóa họp của Đại hội đồng được tiến hành tại trụ sở của
Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại hội đồng có quyết định khác.
4. Đại hội đồng thông qua quy chế nội bộ của mình. Mỗi khi
khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu ra chủ tịch và số ủy viên cần thiết
khác của cơ quan chỉ đạo. Những người này lãnh trách nhiệm cho đến khi bầu cử một
cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường kỳ tiếp theo.
5. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số thành viên của Đại
hội đồng.
6. Mỗi thành viên của Đại hội đồng có một phiếu.
7. Các quyết định về những vấn đề thủ tục kể cả việc triệu tập
một khóa họp bất thường của Đại hội đồng được thông qua theo đa số thành viên
có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định về các vấn đề nội dung phải được hai phần
ba thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải gồm
đa số các thành viên tham dự khóa họp. Trong trường hợp còn nghi ngờ không rõ
có phải là một vấn đề nội dung hay không, thì vấn đề bàn cãi đó được coi như là
một vấn đề nội dung, trừ trường hợp Cơ quan quyền lực có quyết định khác theo
đa số cần thiết đối với những quyết định về các vấn đề nội dung.
9. Khi một vấn đề nội dung sắp được đem ra biểu quyết lần đầu
thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có ít nhất một phần năm số thành viên của Đại hội
đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn việc biểu quyết về điểm này trong một thời hạn
không được quá 5 ngày. Quy tắc này chỉ có thể được áp dụng một lần đối với cùng
một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được làm cho vấn đề bị hoãn đến
quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất một phần tư số thành viên của Đại hội đồng
thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên Chủ tịch Đại hội đồng, yêu cầu các Đại hội đồng
lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị đưa ra Đại hội đồng yêu cầu Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc tế về luật biển có ý kiến
tư vấn. Cuộc biểu quyết được hoãn đến khi Viện phát biểu ý kiến. Nếu trước khi
khóa họp kết thúc một tuần mà chưa nhận được ý kiến tư vấn thì Đại hội đồng quyết
định thời gian sẽ họp lại để biểu quyết về đề nghị đã bị hoãn lại đó.
ĐIỀU 160. Các quyền hạn và chức năng
1. Đại hội đồng, cơ quan duy nhất bao gồm tất cả các thành
viên của Cơ quan quyền lực, được coi là cơ quan tối cao của Cơ quan quyền lực;
Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm trước nó, như đã được quy định rõ ràng
trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn cứ vào các quy định tương ứng của
Công ước quyết định chính sách chung của Cơ quan quyền lực về bất kỳ vấn đề gì
hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực.
2. Ngoài ra, Đại hội đồng còn có các quyền hạn và chức năng
sau đây:
a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề
nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của Hội
đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì thành lập các cơ quan phụ trợ để có thể làm
tròn các chức năng của mình theo đúng phần này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ
trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý
về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt và đến sự cần thiết bảo đảm cho
các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên có trình độ và thông thạo trong
những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần đóng góp của các thành viên vào ngân sách
hành chính của Cơ quan quyền lực theo một ba-rem đã được sử dụng cho ngân sách
thông thường của Liên hợp quốc, cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản
thu nhập lấy từ các nguồn khác đủ để trang trải các chi phí hành chính của
mình;
f) i. Dựa vào kiến nghị của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn
các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc phân chia công bằng từ các
mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác thu được từ những hoạt động
tiến hành trong Vùng cũng như những đóng góp được trù định ở Điều 82, có quan
tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu của các nước đang phát triển và các
dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị
khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các kiến nghị của Hội đồng, thì gửi trả
lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội đồng xem xét lại dưới ánh sáng các
quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê chuẩn các quy tắc, qui định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả những điều sửa đổi đối với văn bản này, mà Hội
đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều 162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy tắc, quy
định và thủ tục này nhằm vào việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng,
vào vấn đề quản lý tài chính và vấn đề hành chính nội bộ của Cơ quan quyền lực
và, trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng quản trị của Xí nghiệp, vào vấn đề chuyển
khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan quyền lực;
g) Quyết định việc phân chia công bằng các mối lợi về tài
chính và các mối lợi về kinh tế khác có được từ các hoạt động tiến hành trong
Vùng, một cách phù hợp với Công ước và các quy định và thủ tục của Cơ quan quyền
lực;
h) Xem xét và phê chuẩn dự trù ngân sách hàng năm của Cơ
quan quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên;
i) Xem xét và báo cáo định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp,
cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ
quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên;
j) Cho tiến hành các cuộc nghiên cứu và soạn thảo các kiến
nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến các hoạt động tiến hành trong
vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật quốc tế theo hướng tiến bọ và
pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những vấn đề có tính chất chung có liên quan đến
các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh đối với
các quốc gia đang phát triển, cũng như đối với những vấn đề mà các hoạt động
này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị trí địa lý của họ, nhất là các quốc
gia không có biển và các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi;
l) Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế
hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ hay thi hành các biện pháp giúp đỡ
khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế như đã trù định
trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các đặc quyền gắn liền với
tư cách thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất kỳ vấn đề gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của
Cơ quan quyền lực và quyết định một cách phù hợp với việc phân chia các quyền
và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ quan nào sẽ giải quyết một vấn đề
gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát cho các cơ quan đó.
TIỂU MỤC C. HỘI ĐỒNG
ĐIỀU 161. Cơ cấu, thủ tục và bỏ phiếu
1. Hội đồng gồm 36 ủy viên của Cơ quan quyền lực do Đại hội
đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành
viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản phẩm cơ bản thuộc các loại
khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức tiêu thụ hay mức nhập khẩu
của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời gian 5 năm lại đây có số liệu
thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có một quốc gia thuộc khu vực
Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu thụ lớn nhất;
b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành
viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước
mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và
thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các
hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một số
quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành
viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước
mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực
hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải
có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc xuất
khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành
viên đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc biệt. Những lợi ích đặc
biệt phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc gia có dân số đông,
của các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các quốc
gia trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại khoáng sản sẽ được khai
thác trong Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất các khoáng sản đó và của
các quốc gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công bằng
theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội đồng; tất nhiên là theo quy định
này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy viên. Các
khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu (xã hội
chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy viên của Hội đồng theo đúng khoản 1, Đại hội
đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của các quốc gia không có biển và của các quốc
gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ
tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b,
c hay d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng
sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong một khóa họp thường
lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên của Hội đồng được bầu với nhiệm kỳ là bốn
năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên của Hội đồng lần đầu, một nữa số ủy
viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản 1 có nhiệm kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của Hội đồng có thể được tái cử, nhưng cần phải
chú ý thích đang đến việc bảo đảm sự luân phiên của các ủy viên.
5. Hội đồng thi hành chức trách của mình ở trụ sở của Cơ
quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực
và, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi năm họp ba lần.
6. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số ủy viên của Hội đồng.
7. Mỗi ủy viên của Hội đồng có một phiếu.
8. a) Các quyết định về các vấn đề thủ tục được thực hiện
theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ phiếu.
b) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đề ra liên
quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và Điều 191, được thông
qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa
số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng;
c) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên
quan đến các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy
viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao
gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm
a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp
một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng;
Điều 162, khoản 2, điểm w, với điều kiện các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ
có thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được một quyết định phù hợp với điểm d,
xác nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3;
Điều 11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên
quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc thông qua các điều sửa
đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận)
có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp
sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến
phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy rằng có một
ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu tập
một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự chủ tọa
của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến bất đồng và dự thảo một đề nghị
có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải nhanh
chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14 ngày sau
khi thành lập. Nếu ủy ban không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể được
thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo của
mình những lý do của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định về những vấn đề không được liệt kê ở trên
mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy định và thủ tục của
đó, nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy
định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy định được xác định bởi một quyết định
của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc phạm
vi của các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi như thuộc quy định đòi
hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo đa số cao
nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
9. Hội đồng định ra một thử tục cho phép một thành viên của
Cơ quan quyền lực không có đại diện ở Hội đồng được tham dự vào một cuộc họp của
Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một
vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện của thành viên này có
thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được quyền bỏ phiếu.
ĐIỀU 162. Các quyền hạn và chức năng
1. Hội đồng là cơ quan chấp hành của Cơ quan quyền lực có
quyền căn cứ vào Công ước và chính sách chung do Đại hội đồng xác định, định ra
các chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi
việc thuộc thẩm quyền của mình.
2. Ngoài ra, Hội đồng còn:
a) Giám sát và tổ chức phối hợp việc áp dụng phần này đối với
tất cả các vấn đề và các việc thuộc thẩm quyền của Cơ quyền lực và lưu ý Đại hội
đồng về những trường hợp không tuân thủ;
b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách các ứng cử viên vào chức
vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức
vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến
các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy cần
thiết để thi hành các chức năng của mình theo đúng phần này. Đối với thành phần
của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên phải có
trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ
trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý và đến
các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định
cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên
hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với
điều kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo
đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo
đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ lục
III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày sau
ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một
phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế
hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận, nếu không có ủy viên nào của Hội đồng
gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng văn bản rõ
ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục III. Nếu
một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa giải được trù định ở Điều 161,
khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn còn tiếp
thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc coi như được Hội đồng chuẩn y, trừ
khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này bằng consensus (thỏa thuận), không kể quốc
gia hay các quốc gia đưa ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay
không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba
phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao
gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo
đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết
về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát đối với những hoạt động tiến hành
trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo
đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo vệ
các quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế bất lợi nói trong
quy định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các
kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ hay định ra các biện
pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế
đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và
thủ tục về việc phân chia công bằng những mối lợi về tài chính và những mối lợi
kinh tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, cũng như về các
khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu
của các quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được độc lập
hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi Đại hội
đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi điều
sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những kiến nghị của Ủy ban pháp
lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên quan khác. Những quy tắc,
quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng,
cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội bộ của quy tắc, quy định và
thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác các khối đa kim. Các quy tắc,
quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi tài nguyên ngoài các khối đa kim được
thông qua trong một thời hạn 3 năm kể từ ngày Cơ quan quyền lực nhận được đơn của
một trong các ủy viên của mình về vấn đề này. Các quy tắc, quy định và thủ tục
đó có hiệu lực tạm thời đến khi được Đại hội đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội
đồng sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ
quan quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được thực
hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép
sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường hợp được trù định
trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải
theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về việc đình chỉ thi
hành các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng quyết định của Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và
có những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình
hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại
nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt động tiến hành trong
Vùng;
x) Không cho các người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai
thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến
hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển;
y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo
những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan đến:
i. Việc quản lý tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính được trù định trong Điều 134 và
Điều 17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích hợp để điều khiển và giám sát một
đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác
định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và
các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân
thủ không.
ĐIỀU 163. Các cơ quan của Hội đồng
1. Các cơ quan của Hội đồng thành lập gồm có:
a) Một Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy viên do Hội đồng bầu ra trong số các
ứng cử viên do các quốc gia thành viên giới thiệu. Tuy nhiên, nếu cần thiết, Hội
đồng có thể quyết định mở rộng các thành phần của Ủy ban này hay ủy ban kia,
nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và về hiệu quả.
3. Các ủy viên của mỗi ủy ban phải có trình độ chuyên môn cần
thiết trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của ủy ban. Để bảo đảm cho các ủy
ban thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc gia thành viên cử các ứng cử viên
tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên môn cần thiết trong các lĩnh vực
tương ứng.
4. Khi lựa chọn, cần phải tính đến sự cần thiết phải phân bổ
các thành viên công bằng theo địa lý và đại diện được cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc gia thành viên nào có thể giới thiệu quá một
ứng cử viên vào cùng một ủy ban. Không ai có thể được bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của ủy ban được bầu với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ
có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường hợp một ủy viên của một ủy ban bị chết, bất
lực hay từ chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì Hội đồng bầu một ủy viên của cùng
khu vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi ích để tiêp tục hoàn thành nhiệm
kỳ của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của các ủy ban không được có lợi ích tài
chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác ở
Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà họ là ủy viên, họ không được
phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp
đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14 của Phụ lục III, cũng
không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết được do chức trách của họ ngay
cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải làm tròn chức năng của mình theo đúng các
nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng quyết định.
10. Mỗi ủy ban soạn thảo và trình lên Hội đồng thông qua các
quy tắc và quy định cần thiết để ủy ban hoạt động được tốt.
11. Các thủ tục ra quyết định của các ủy ban do các quy tắc,
quy định và các thủ tục của cơ quan quyền lực quy định. Nếu có thể được thì những
kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo một bản trình bày tóm tắt những ý kiến
khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường, các ủy ban làm việc ở trụ sở của Cơ quan
quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần thiết để hoàn thành chức năng của mình một
cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi hành chức năng của mình, nếu có thể được
thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy ban khác hay mọi cơ quan có thẩm quyền của
Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hoặc mọi tổ chức
quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem xét.
ĐIỀU 164. Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế
1. Các ủy viên của ủy ban kế hoạch hóa kinh tế cần có trình
độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt khai thác mỏ, quản lý các tài nguyên
khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh tế quốc tế. Hội đồng cố gắng bảo đảm
cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách đồng
bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải có ít nhất hai công dân của quốc gia đang
phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các loại khoáng
sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, đề xuất các biện pháp thực hiện
các quyết định được thông qua theo đúng Công ước có liên quan đến các hoạt động
tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu và giá cả của các
khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện
này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng như của các nước xuất
khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất
lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành
viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để đệ trình lên Đại hội đồng, như được
trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang
phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất
lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều
chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị cần thiết để thực hiện,
trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các biện pháp giúp đỡ đã được
Đại hội đồng chấp nhận.
ĐIỀU 165. Ủy ban pháp lý và kỹ thuật
1. Các ủy viên của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật phải có trình
độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt thăm dò, khai thác và chế biến tài
nguyên khoáng sản, về hải dương học và về việc bảo vệ môi trường biển hoặc về
những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến các hoạt động khai thác quặng ở
biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy
ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách đồng bộ.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, soạn thảo các kiến nghị lên Hội
đồng về việc thi hành các chức năng của Cơ quan quyền lực;
b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản
có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3
và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy định
trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo cáo
đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến
hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể
hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay các quốc gia hữu
quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động đã
tiến hành hoặc đang tiến hành trong Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi trường
biển, có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định
và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích
hợp, kể các việc đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động tiến
hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và
thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần
thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí
một chương trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích
định kỳ bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ
hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi trường
biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và được tôn trọng, và việc
phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi chương trình này được Hội đồng
chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan quyền
lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét xử, đặc
biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này và các phụ lục có liên quan đến phần
này;
j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về các biện pháp thi
hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được giao giải
quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội
đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm
phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển
do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu tiên xem xét các kiến nghị
này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho những người ký kết hợp đồng
hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng
điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi trường biển;
m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ
đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành
trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện của mọi hợp đồng đã ký kết với
Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không;
n) Tính toán sản lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực
cấp giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng
đã tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những người
yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu của mọi quốc gia thành viên mọi bên hữu quan
khác, các ủy viên của Ủy ban, khi thực hiện chức trách giám sát và thanh tra của
mình phải cho một đại diện của quốc gia hay của bên hữu quan này tham dự.
TIỂU MỤC D. BAN THƯ KÝ
ĐIỀU 166. Ban thư ký
1. Ban thư ký của Cơ quan quyền lực gồm có một Tổng thư ký
và số nhân viên theo sự cần thiết của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký do Đại hội đồng bầu ra trong số các ứng cử
viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm và có thể được bầu lại.
3. Tổng thư ký là viên chức cao nhất của Cơ quan quyền lực
và hoạt động với tư cách này trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội
đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư ký thực hiện mọi chức trách hành
chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký trình lên Đại hội đồng một báo cáo hàng năm về
hoạt động của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 167. Nhân viên của Cơ quan quyền lực
1. Nhân viên của Cơ quan quyền lực bao gồm những người có
trình độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ quan quyền lực cần để thi hành
các chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất trong vấn đề tuyển lựa và xác định các điều
kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Cơ quan quyền lực có những nhân viên phục
vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông và liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ
này, phải tính đến tầm quan trọng của việc tuyển lựa trên cơ sở địa lý càng rộng
rãi càng tốt.
3. Nhân viên do Tổng thư ký bổ nhiệm. Các điều kiện và thể
thức bổ nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù hợp với các quy tắc, quy định và
thủ tục của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 168. Tính chất quốc tế của Ban thư ký
1. Trong khi thực hiện chức trách của mình, Tổng thư ký và
nhân viên không được xin hay nhận chỉ thị của bất kỳ một chính phủ nào hay một
nguồn nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư ký và nhân viên tránh mọi hành
vi không phù hợp với tư cách các viên chức quốc tế và họ chỉ chịu trách nhiệm đối
với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành viên cam kết tôn trọng tính chất quốc
tế thuần túy của các chức trách của Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền
lực và cam kết không tìm cách gây ảnh hưởng đến họ trong khi họ thi hành nhiệm
vụ. Mọi hoạt động thiếu trách nhiệm của một viên chức được đưa ra trước một tòa
án hành chính được chỉ định theo các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký và nhân viên không được có những lợi lộc tài
chính trong một hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác tiến hành
trong Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với Cơ quan quyền lực, họ không được
tiết lộ một bí mật nào, một số liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp và đã được
chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14, Phụ lục III và một thông tin mật
nào khác mà họ biết do các chức trách của họ ngay cả sau khi đã thôi việc cũng
vậy.
3. Nếu một viên chức của Cơ quan quyền lực có những thiếu
sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì, theo yêu cầu của một quốc gia thành
viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó, hay theo yêu cầu của một tự nhiên nhân hay
pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo Điều 153, khoản 2, điểm b bị
thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền lực sẽ truy tố viên chức này trước một
tòa án được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
Bên bị thiệt hại có quyền tham gia vào việc tố tụng, nếu tòa án kiến nghị, Tổng
thư ký phải thải hồi nhân viên đó.
4. Các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực
trù định các thể thức áp dụng điều này.
ĐIỀU 169. Tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế
và các tổ chức phi chính phủ
1. Đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực,
Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng phê chuản, ký các thỏa thuận để tham khảo ý
kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ được Hội đồng
kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa
thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự với tư cách là quan
sát viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng
quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định ra để cho các tổ chức
đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp thích hợp.
3. Tổng thư ký có thể phân phát cho các quốc gia thành viên
các báo cáo bằng văn bản của các tổ chức phi chính phủ nói ở khoản 1 về các vấn
đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và có liên quan đến công việc của Cơ quan quyền
lực.
TIỂU MỤC E. XÍ NGHIỆP
ĐIỀU 170. Xí nghiệp
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến
hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt
động vận chuyển, chế biến và buôn bán các khoáng sản được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế,
Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được trù định trong Phụ lục IV. Xí nghiệp hoạt động
theo đúng Công ước và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực,
cũng như theo đúng chính sách chung do Đại hội đồng quyết định, và Xí nghiệp
tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và chịu sự kiểm soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ quan chính đóng tại trụ sở của Cơ quan
quyền lực.
4. Theo đúng Điều 173, khoản 2 và Điều 11 của Phụ lục IV, Xí
nghiệp có những nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các chức năng của mình,
và có các kỹ thuật đã được chuyển giao theo Điều 144 và theo các quy định thích
hợp khác của Công ước.
TIỂU MỤC F.TỔ CHỨC TÀI CHÍNH CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC
ĐIỀU 171. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực
Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực gồm có:
a) Các khoản đóng góp của các thành viên của Cơ quan quyền lực
được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều
13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của
Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều 174;
e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên
hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151, khoản
10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các nguồn.
ĐIỀU 172. Ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
Tổng thư ký lập dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem xét dự án đó và đệ trình lên Đại hội đồng với
những kiến nghị của mình để Đại hội đồng phê chuẩn theo Điều 160, khoản 2, điểm
h.
ĐIỀU 173. Chi phí của Cơ quan quyền lực
1. Những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a được nộp vào
một tài khoản đặc biệt và dùng để trang trải các khoản cho hành chính của Cơ
quan quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu từ các nguồn
khác đủ để trang trải các khoản chi này.
2. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực trước tiên dùng
để thanh toán những khoản chi hành chính. Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều
171, điểm a, quỹ còn lại sau khi thanh toán các chi phí hành chính có thể dùng,
đặc biệt để:
a) Phân chia theo đúng Điều 140 và Điều 160, khoản 2, điểm
g;
b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều
151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l.
ĐIỀU 174. Quyền vay vốn của Cơ quan quyền lực
1. Cơ quan quyền lực có quyền vay vốn.
2. Đại hội đồng ấn định giới hạn của quyền này trong quy chế
tài chính được thông qua theo Điều 160, khoản 2, điểm f.
3. Hội đồng thực hiện quyền vay vốn này.
4. Các quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 175. Kiểm tra tài chính hàng năm
Mỗi năm các báo cáo sổ sách và tài khoản của Cơ quan quyền lực,
kể cả các bản quyết toán tài chính hàng năm được một kiểm soát viên độc lập do
Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
TIỂU MỤC G. QUY CHẾ PHÁP LÝ, CÁC ĐẶC QUYỀN VÀ QUYỀN MIỄN TRỪ
ĐIỀU 176. Quy chế pháp lý
Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế và có quyền về pháp
lý cần thiết để thi hành chức năng và đạt tới các mục đích của mình.
ĐIỀU 177. Các đặc quyền và quyền miễn trừ
Để có thể thực hiện các chức năng của mình, Cơ quan quyền lực
được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên những đặc quyền và quyền
miễn trừ được trù định trong tiểu mục này. Những đặc quyền và quyền miễn trừ
liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của Phụ lục IV.
ĐIỀU 178. Quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản
Cơ quan quyền lực cũng như tài sản và của cải của mình đều
được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản, trừ phạm vi mà
Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc
biệt.
ĐIỀU 179. Quyền miễn trừ khám xét và miễn mọi hình thức sai
áp khác
Những của cải và tài sản của Cơ quan quyền lực, dù chúng nằm
ở đâu và người giữ chúng là ai, đều được miễn khám xét, trưng thu, tịch thu, tước
đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo một biện pháp của cơ quan hành pháp hay
lập pháp.
ĐIỀU 180. Quyền miễn trừ mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định
hay lệnh tạm hoãn nợ
Tài sản và của cải của Cơ quan quyền lực được miễn mọi sự kiểm
soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ nào.
ĐIỀU 181. Hồ sơ và các thông tin chính thức của Cơ quan quyền
lực
1. Hồ sơ của Cơ quan quyền lực dù chúng được cất giữ ở đâu đều
bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu thuộc sở hữu công nghiệp, các thông tin thuộc
bí mật công nghiệp của Cơ quan quyền lực và các thông tin tương tự, cũng như
các hồ sơ về nhân sự không được để trong các cơ quan lưu trữ đại chúng.
3. Đối với các thông tin chính thức, mỗi quốc gia thành viên
dành cho Cơ quan đối xử ít nhất cũng thuận tiện như đối với các tổ chức quốc tế
khác.
ĐIỀU 182. Các đặc quyền và quyền miễn trừ đối với các nhân
viên hoạt động trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực
Đại biểu các quốc gia thành viên tham dự các cuộc họp của Đại
hội đồng, của Hội đồng hoặc của các cơ quan của Đại hội đồng hay của Hội đồng,
cũng như Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực, được hưởng trên lãnh
thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ về tài phán và tịch thu tài sản đối với
các hành động của họ trong khi thi hành các chức vụ của mình, trừ phạm vi quốc
gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này
trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên
lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện, công chức và nhân cấp
tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều kiện nhập cư, các thủ
tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các điều
kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối đoái và về di chuyển, trừ
khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
ĐIỀU 183. Miễn thuế hay lệ phí và miễn thuế quan
1. Trong khi thi hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực
cùng với của cải, tài sản và thu nhập của mình, cũng như những hoạt động và
giao dịch được Công ước này cho phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và
các tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong công
vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực không thể yêu cầu miễn bất
cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ mà họ được hưởng.
2. Đối với những việc mua của cải hay trả tiền dịch vụ của
Cơ quan quyền lực hay nhân danh Cơ quan quyền lực có một giá trị lớn, cần thiết
cho việc thực hiện chức năng của Cơ quan quyền lực và nếu giá các loại tài sản
đó hay giá dịch vụ đó bao gồm cả thuế, lệ phí hay thuế quan, thì các quốc gia
thành viên sẽ cố gắng hết sức thi hành những biện pháp thích hợp để miễn hay
hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay thuế quan. Các của cải nhập khẩu hay mua
theo chế độ miễn trừ được quy định ở điều này không được bán, chuyển nhượng bằng
cách nào khác trên lãnh thổ của quốc gia thành viên đã cho phép miễn thuế, trừ
khi việc đó được tiến hành theo các điều kiện đã thỏa thuận với quốc gia thành
viên này.
3. Các quốc gia thành viên không được thu một loại thuế trực
thu hay gián thu nào đánh vào tiền lương, tiền thù lao hay vào các khoản tiền
khác mà Cơ quan quyền lực trả cho Tổng thư ký và cho các nhân viên của mình,
cũng như cho các chuyên gia thực hiện những nhiệm vụ do Cơ quan quyền lực giao,
trừ khi họ là công dân của các nước đó.
TIỂU MỤC H. ĐÌNH CHỈ VIỆC HƯỞNG CÁC QUYỀN VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA
CÁC THÀNH VIÊN
ĐIỀU 184. Đình chỉ quyền bỏ phiếu
Trong việc thanh toán các khoản đóng góp của mình cho Cơ
quan quyền lực, một quốc gia thành viên nộp chậm, thì không được tham gia vào
các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn thiếu bằng hoặc cao hơn tổng số tiền phải
đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại hội đồng có thể cho phép thành viên này
tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét thấy việc thiếu sót này là do những
hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
ĐIỀU 185. Đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có
của các thành viên
1. Một quốc gia vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và
kéo dài thì có thể bị Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội đồng đình chỉ việc
hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của thành viên.
2. Không một quyết định nào có thể được thi hành theo khoản
1, chừng nào mà Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không xác
nhận rằng quốc gia thành viên hữu quan đã vi phạm phần này một cách nghiêm trọng
và kéo dài.
Mục 5. GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ Ý KIẾN TƯ VẤN
ĐIỀU 186. Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển của Tòa án quốc tế về luật biển
Mục này, phần XV và Phụ lục VI điều chỉnh quy chế của Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển và các cách thức mà Viện thi
hành thẩm quyền của mình,
ĐIỀU 187. Thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh chấp liên
quan đến đáy biển
Theo phần này và các phụ lục có liên quan, Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển có thẩm quyền xét xử những loại tranh chấp
về những hoạt động tiến hành trong Vùng sau đây:
a) Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng phần này và các phụ lục có liên quan;
b) Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan
quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của
một quốc gia thành viên được viện dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này
hay các phụ lục có liên quan hay các quy tắc quy định hay thủ tục đã được Cơ
quan quyền lực thông qua theo đúng các quy định này; hoặc
ii. Các hành động của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã
vượt quá thẩm quyền của mình hay đã lạm quyền;
c) Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù
các bên này là các quốc gia thành viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay
các xí nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều
153, khoản 2, điểm b, liên quan đến:
i. Việc giải thích hay thi hành một hợp đồng hay một kế hoạch
làm việc; hoặc
ii. Các hành động hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng
liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác
hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi ích chính đáng của các bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu
cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b và đã thoản
mãn các điều kiện được quy định ở Điều 4, khoản 6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục
III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay đến một vấn đề pháp lý nảy
sinh trong khi thương lượng về hợp đồng;
e) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia
thành viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một
quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng,
theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh chấp này có đụng đến trách nhiệm của Cơ
quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ
ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
ĐIỀU 188. Việc đưa những vụ tranh chấp ra trước một Viện đặc
biệt của Tòa án quốc tế về luật biển hay ra trước một viện ad-hoc (đặc biệt) của
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển hay ra trước một trọng
tài thương mại bắt buộc
1. Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên đề cập ở
Điều 187, điểm a có thể được đưa ra trước:
a) Một viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật biển được lập
ra theo đúng các Điều 15 và 17 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của các bên tranh
chấp; hay
b) Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI,
theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng một hợp đồng nêu ở Điều 187, điểm c điểm nhỏ i theo yêu cầu của bất kỳ bên
tranh chấp nào, được đưa ra trước trọng tài thương mại bắt buộc, trừ khi các
bên tranh chấp có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài thương mại xét xử một vụ tranh
chấp như thế không có thẩm quyền phán xét về một điểm giải thích Công ước. Nếu
vụ tranh chấp bao hàm một điểm giải thích Phần XI và các phụ lục có liên quan,
về các hoạt động tiến hành trong Vùng thì điểm này phải được chuyển lên cho Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển quyết định.
b) Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến hành một thủ tục trọng
tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu cầu của một trong những
bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc vào một
quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, thì Tòa
trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện nói trên quyết định.
Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết định của Viện;
c) Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy định về thủ tục trọng
tài có thể áp dụng cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng tài được thực hiện
theo quy chế trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế trọng tài nào khác có
thể được trù định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 189. Giới hạn thẩm quyền liên quan đến các quyết định của
Cơ quan quyền lực
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không
có thẩm quyền phán xét đối với việc Cơ quan quyền lực, theo đúng phần này, thi
hành các quyền tùy ý quyết định của mình; trong bất kỳ trường hợp nào, Viện này
cũng không thể thay thế cho Cơ quan quyền lực trong việc thi hành các quyền tùy
ý quyết định nói trên. Không phương hại đến Điều 191, khi thi hành thẩm quyền
được thừa nhận theo Điều 187, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển không được phán xét đối với các vấn đề xem một quy tắc, quy định hay một
thủ tục của Cơ quan quyền lực có phù hợp với Công ước hay không và không thể
tuyên bố quy tắc, quy định hay thủ tục này là vô hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ
giới hạn trong việc xác định xem việc áp dụng quy tắc, quy định hay thủ tục của
Cơ quan quyền lực trong những trường hợp riêng biệt có ngược lại với những
nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên tranh chấp hay với các nghĩa vụ của họ theo
Công ước không và xét xử những trường hợp kháng cáo về việc không đủ thẩm quyền
hay lạm quyền, cũng như những yêu cầu bồi thường thiệt hại và những yêu cầu đền
bù khác do một trong các bên kiện bên kia vì thiếu sót trong việc thi hành
nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa vụ của họ theo Công ước.
ĐIỀU 190. Sự tham gia tố tụng và ra trước tòa của các quốc
gia thành viên đã nhận bảo trợ
1. Quốc gia thành viên bảo trợ cho một tự nhiên nhân hay
pháp nhân tham gia vào một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187 được nhận thông báo
về vụ tranh chấp và có quyền tham gia vào trình tự tố tụng bằng cách trình bày
những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời.
2. Khi một vụ kiện do một tự nhiên nhân hay pháp nhân được một
quốc gia thành viên khác bảo trợ, đệ đơn kiện một quốc gia thành viên về một vụ
tranh chấp đã nêu ở Điều 187, điểm c, thì quốc gia bị đơn có thể yêu cầu quốc
gia bảo trợ ra trước tòa nhân danh bên nguyên. Nếu không ra trước tòa được, thì
quốc gia bị đơn có thể ủy quyền cho một pháp nhân mang quốc tịch của mình thay
mặt.
ĐIỀU 191. Ý kiến tư vấn
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đưa ra
các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng, hay Hội đồng về những vấn đề
pháp lý được đặt ra trong những thời hạn ngắn nhất.
Phần XII
BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
Mục 1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 192. Nghĩa vụ chung
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
ĐIỀU 193. Quyền thuộc chủ quyền của các quốc gia khai thác
các tài nguyên thiên nhiên của mình
Các quốc gia có quyền thuộc chủ quyền khai thác các tài
nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi trường của mình và theo đúng
nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình.
ĐIỀU 194. Các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển
1. Các quốc gia, tùy theo tình hình, thi hành riêng rẽ hay
phối hợp với nhau, tất cả các biện pháp phù hợp với Công ước, cần thiết để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, sử dụng các phương tiện thích
hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này.
2. Các quốc gia thi thành mọi biện pháp cần thiết để cho các
hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không gây tác hại
do ô nhiễm cho các quốc gia khác và cho môi trường của họ và để cho nạn ô nhiễm
nảy sinh từ những tai nạn hay từ các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền
kiểm soát của mình không lan ra ngoài các khu vực mà mình thi hành các quyền thuộc
chủ quyền theo đúng Công ước.
3. Các biện pháp được sử dụng để thi hành phần này cần phải
nhằm vào tất cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường biển. Nhất là, chúng bao gồm
những biện pháp nhằm hạn chế đến mức cao nhất:
a. Việc thải bỏ từ khí quyển xuống hay đi qua khí quyển do
nhận chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không bị phân hủy
từ các nguồn ở đất liền;
b. Ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra, đặc biệt là những biện
pháp nhằm đề phòng các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, nhằm đảm bảo
an toàn cho các hoạt động trên biển, ngăn ngừa những hành động thải bỏ, dù cố ý
hay không, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác
các tàu thuyền;
c. Ô nhiễm bắt nguồn từ các thiết bị hay phương tiện được sử
dụng để thăm dò hay khai thác các tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển này, đặc biệt là các biện pháp nhằm phòng ngừa các sự cố và đối
phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển,
và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác các thiết bị
hay phương tiện này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở đó;
d. Ô nhiễm xuất phát từ các thiết bị hay phương tiện khác hoạt
động trong môi trường biển, đặt biệt là những biện pháp nhằm phòng ngừa những sự
cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, bảo đảm an toàn cho các hoạt động
trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và khai thác các
thiết bị hay phương tiện này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở đó.
4. Khi thi hành các biện pháp phòng ngừa, hạn chế , hay chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia tránh chấp cứ sự can thiệp vô lý nào
vào các hoạt động của các quốc gia khác đang thi hành các quyền hay đang thực
hiện nghĩa vụ của họ theo đúng Công ước.
5. Các biện pháp được thi hành theo đúng phần này bao gồm
các biện pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống sinh thái hiếm hoi
hay mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các loài và các sinh vật biển khác
đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt.
ĐIỀU 195. Nghĩa vụ không được đùn đẩy thiệt hại hay các nguy
cơ và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác
Khi thi hành các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia phải làm sao để không đùn đẩy, trực tiếp
hay gián tiếp, thiệt hại hay các nguy cơ từ vùng này sang vùng khác và không được
thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác.
ĐIỀU 196. Sử dụng các kỹ thuật hay du nhập các loài ngoại
lai hoặc mới
1. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển từ việc sử dụng các kỹ thuật trong
khuôn khổ quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý
hay vô tình vào một bộ phận môi trường biển các ngoại lai hoặc mới có thể gây
ra ở đó các thay đổi đáng kể và có hại.
2. Điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định của
Công ước có liên quan đến các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển.
Mục 2. HỢP TÁC TRÊN PHẠM VI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 197. Hợp tác trên phạm vi thế giới hoặc khu vực
Các quốc gia hợp tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì
trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm,
cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp
với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có
tính chất khu vực.
ĐIỀU 198. Thông báo về một nguy cơ gây thiệt hại sắp xảy ra
hay thông báo về một thiệt hại thực sự
Quốc gia nào biết được trường biệt môi trường biển đang có
nguy cơ sắp phải chịu những thiệt hại hay đã chịu những thiệt hại do ô nhiễm
thì phải lập tức thông báo cho các quốc gia khác mà mình xét thấy có nguy cơ phải
chịu những tổn thất này cũng như cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
ĐIỀU 199. Kế hoạch khẩn cấp chống ô nhiễm
Trong các trường hợp đã nêu ở Điều 198, các quốc gia ở trong
khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng của mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hợp tác với nhau đến mức cao nhất nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và
nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại. Nhằm mục đích này,
các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc tiến các kế hoạch khẩn cấp để đối
phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 200. Công tác nghiên cứu, các chương trình nghiên cứu
và trao đổi thông tin và các dữ kiện
Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hiện
các chương trình nghiên cứu khoa học và khuyến khích việc trao đổi các thông
tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi trường biển. Các quốc gia cố gắng tham gia
tích cực vào các chương trình khu vực và thế giới nhằm thu được những kiến thức
cần thiết để xác định tính chất và phạm vi ô nhiễm, đối tượng có nguy cơ bị ô
nhiễm, những con đường mà nạn ô nhiễm đi qua, những nguy hiểm mà nạn ô nhiễm chứa
đựng và những phương thức khắc phục có thể có.
ĐIỀU 201. Tiêu chuẩn khoa học để soạn thảo các quy định
Lưu ý đến các thông tin và các dữ kiện thu được trong khi áp
dụng Điều 200, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm lập ra các tiêu chuẩn khoa học thích
hợp để xây dựng và soạn thảo các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và
thủ tục được kiến nghị nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Mục 3. GIÚP ĐỠ KỸ THUẬT
ĐIỀU 202. Giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển trong các
lĩnh vực khoa học và kỹ thuật
Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, các quốc gia cần:
a. Đẩy mạnh các chương trình giúp đỡ cho các quốc gia đang
phát triển trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, kỹ thuật và trong các lĩnh vực
khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này đặc biệt gồm có:
i. Đạo tạo nhân viên khoa học và kỹ thuật của các quốc gia
này;
ii. Tạo điều kiện dễ dàng cho việc tham gia của các quốc gia
này vào các chương trình quốc tế thích hợp;
iii. Cung cấp cho các quốc gia này cơ sở vật chất và những
điều kiện thuận lợi cần thiết;
iv. Tăng cường khả năng tự sản xuất cơ sở vật chất nói trên
cho các quốc gia đó;
v. Giúp đỡ các ý kiến tư vấn và phát triển các phương tiện vật
chất liên quan đến các chương trình nghiên cứu, các chương trình giám sát liên
tục, chương trình giáo dục và các chương trình khác;
b. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc
gia đang phát triển, để giúp các quốc gia này giảm bớt đến mức tối thiểu những ảnh
hưởng của các tai biến lớn có nguy cơ gây ra một nạn ô nhiễm nghiêm trọng cho
môi trường biển;
c. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc
gia đang phát triển, để xây dựng các đánh giá về sinh thái học.
ĐIỀU 203. Việc đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển hoặc
để hạn chế đến mức tối thiểu các ảnh hưởng của nó, các tổ chức quốc tế dành sự
đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển về:
a. Việc trợ cấp vốn và các phương tiện giúp đỡ kỹ thuật
thích hợp; và
b. Việc sử dụng các cơ sở chuyên môn của mình.
Mục 4. GIÁM SÁT LIÊN TỤC VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ SINH THÁI
ĐIỀU 204. Giám sát liên tục các nguy cơ ô nhiễm và ảnh hưởng
của ô nhiễm
1. Các quốc gia cần cố gắng hết sức mình và phù hợp với các
quyền của các quốc gia khác, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền, để quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích, bằng các phương
pháp khoa học được thừa nhận, các nguy cơ ô nhiễm môi trường biển hay những ảnh
hưởng của vụ ô nhiễm này.
2. Đặc biệt, các quốc gia phải thường xuyên giám sát những
tác động của mọi hoạt động mà họ cho phép hay họ tiến hành để xác định xem các
hoạt động này có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường biển hay không.
ĐIỀU 205. Việc công bố các báo cáo
Các quốc gia công bố các báo cáo về kết quả thu được trong
khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng thời gian thích hợp, cung cấp các báo cáo
như vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và các tổ chức quốc tế này cần phải
để cho mọi quốc gia khác sử dụng các báo cáo này.
ĐIỀU 206. Đánh giá những tác dụng tiềm tàng của các hoạt động
Khi các quốc gia có những lý do xác đáng để cho rằng các hoạt
động đã dự tính thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình có quy cơ gây
ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm thay đổi đáng kể và có hại đối với môi
trường biển, thì trong chừng mực có thể, các quốc gia này cần đánh giá các tác
động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối với môi trường đó và cần báo cáo lại
những kết quả của những đánh giá này theo cách đã được quy định ở Điều 205.
Mục 5. QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ LUẬT TRONG NƯỚC NHẰM NGĂN NGỪA, HẠN
CHẾ VÀ CHẾ NGỰ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 207. Ô nhiễm bắt nguồn từ đất
1. Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm xuất
phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ, có lưu
ý đến các quy tắc và quy phạm cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị
và chấp nhận trên phạm vi quốc tế.
2. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp có thể cần thiết để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
3. Các quốc gia có cố gắng điều hòa các chính sách của mình
về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
4. Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông
qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị
trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm bắt
nguồn từ đất đối với môi trường biển, có tính đến các đặc điểm khu vực, đến khả
năng kinh tế của các quốc gia đang phát triển và các đòi hỏi về phát triển kinh
tế của các quốc gia này. Các quy tắc và quy phạm cũng như các những tập quán và
thủ tục được kiến nghị này tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ, được xem
xét lại.
5. Các luật, quy chế và các biện pháp cũng như các quy tắc,
quy phạm và các tập quán, thủ tục được kiến nghị đã nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao
gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến hết mức việc trút vào môi trường biển các
chất độc, có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không thể phân hủy được.
ĐIỀU 208. Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển
thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra
Các quốc gia ven biển thông qua các luật và quy định để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường biển trực tiếp hay gián tiếp
do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra,
hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình thuộc quyền tài phán
của mình theo các Điều 60 và 80.
Các quốc gia thi hành mọi biện pháp khác có thể cần thiết để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp này không được kém hiệu quả
hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến
nghị có tính chất quốc tế.
Các quốc gia cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt
này ở mức độ khu vực thích hợp.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia thông qua các quy tắc
và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị, trên phạm vi thế giới
và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển nói ở
khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị
này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
ĐIỀU 209. Ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây
ra
1. Các quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được thông qua
theo đính Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do
các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra. Các quy tắc, quy định và thủ tục
này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
2. Trong điều kiện tuân theo các quy định thích hợp của mục
này, các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển này sinh từ các hoạt động tiến hành trong Vùng của
các tàu thuyền hay xuất phát từ các thiết bị, công trình hay các phương tiện
khác, tùy theo trường hợp, treo cờ của các quốc gia đó, đăng ký ở trên lãnh thổ
hay thuộc quyền của họ. Các luật và quy định này không được kém hiệu lực hơn
các quy tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói ở khoản 1.
ĐIỀU 210. Ô nhiễm do sự nhận chìm
Các quốc gia thông qua các luật và quy định để phòng ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do sự nhận chìm.
Các quốc gia thi hành tất cả các biện pháp khác có thể cần
thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp phải bảo đảm rằng không một
sự nhận chìm nào có thể được tiến hành mà không được phép của các nhà đương cục
có thẩm quyền của các quốc gia.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao; các quốc gia cố gắng thông qua
trên phạm vi thế giới và khu vực các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và
thủ tục được kiến nghị để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. Các quy tắc
và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần
thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Việc nhận chìm ở trong lãnh hải và trong vùng đặc quyền về
kinh tế hay trên thềm lục địa không thể được tiến hành nếu không được sự đồng ý
rõ ràng trước quốc gia ven biển; quốc gia ven biển có quyền cho phép, quy định
và kiểm soát sự nhận chìm này, sau khi đã xem xét đúng mức vấn đề với các quốc
gia khác mà do những hoàn cảnh địa lý nên việc nhận chìm này có thể có những
tác hại đối với họ.
Các luật và quy định cũng như các biện pháp quốc gia không
được kém hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm có tính chất thế giới để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
ĐIỀU 211. Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra
Hành động qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền
hay qua một hội nghị ngoại giao chung, các quốc gia thông qua các quy tắc và
quy phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do
các tàu thuyền gây ra và quan tâm tạo điều kiện dễ dàng cho việc định ra, cũng
theo cách nói trên, nếu cần, các cách bố trí đường giao thông cho tàu thuyền nhằm
hạn chế đến mức tối thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn có thể làm cho môi trường biển
kể cả vùng duyên hải bị ô nhiễm, và do đó mà đụng chạm đến những lợi ích có
liên quan của các quốc gia ven biển. Các quy tắc và quy phạm này, cũng theo
cách như thế, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền mà mình cho mang cờ hay
cho đăng ký gây ra. Các luật và quy định này không được kém hiệu quả hơn các
quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung và được xây dựng qua trung
gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển, các quốc gia khi đặt ra các điều kiện đặt biệt cho các tàu thuyền nước
ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công trình cảng cuối cùng ở
ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều kiện này và phải thông
báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. Để điều hòa chính sách về mặt này,
khi hai hay nhiều quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện như vậy dưới một hình
thức giống nhau, cần ghi rõ trong thông báo các quốc gia nào tham gia vào các
thỏa thuận như vậy. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mà
mình cho mang cờ hay đăng ký, khi tàu có mặt ở trong lãnh hải của một quốc gia
tham gia vào những thỏa thuận chung này, phải cung cấp, theo yêu cầu của quốc
gia này, những thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu này có hướng về một quốc gia thuộc
cùng khu vực tham gia vào các thỏa thuận này không và, nếu đúng, cần xác định
xem chiếc tàu này có đáp ứng đầy đủ các điều kiện do quốc gia này đặt ra liên
quan đến việc đi vào trong các cảng của mình không. Điều này được áp dụng không
phương hại đến việc tiếp tục thực hiện quyền đi qua không gây hại của một chiếc
tàu hay đến việc áp dụng Điều 25, khoản 2.
Trong việc thi hành chủ quyền đối với lãnh hải của mình, các
quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền nước ngoài gây ra, kể cả các
tàu thuyền đang thực hiện quyền đi qua không gây hại. Các luật và quy định này,
theo đúng với Mục 3 của phần II, không được cản trở việc đi qua không gây hại của
tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm thực hiện việc áp dụng đã nói ở mục 6, các quốc gia ven
biển có thể thông qua các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình; các luật
và quy định đó phải phù hợp và đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy định quốc
tế được chấp nhận chung và được xây dụng qua trung gian của các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
a. Khi các quy tắc và quy phạm quốc tế nói ở khoản 1 không
cho phép đáp ứng một cách thích đáng với những tình huống đặc biệt và nếu một
quốc gia ven biển có lý do chính đáng để cho rằng một khu vực đặc biệt và được
xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, đòi hỏi phải thông
qua các biện pháp bắt buộc đặc biệt để ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra,
vì những lý do kỹ thuật được thừa nhận do những đặc điểm hải dương học và sinh
thái học của khu vực đó cũng như do việc sử dụng hay việc bảo vệ các tài nguyên
của khu vực đó và do đặc điểm riêng của luồng giao thông, thì quốc gia này, sau
khi thông qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến
thích đáng với mọi quốc gia hữu quan, có thể gửi lên tổ chức này một thông báo
liên quan đến khu vực xem xét bằng cách đưa ra những chứng minh khoa học và kỹ
thuật, cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị thu nhận cần thiết để chứng minh.
Trong thời hạn 12 tháng sau khi nhận được thông báo, tổ chức quyết định xem
tình hình trong khu nvực được xem xét có đáp ứng các điều kiện kể trên không. Nếu
tổ chức quyết định đúng là như vậy, thì quốc gia ven biển có thể thông qua cho
khu vực này các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do
các tàu thuyền gây ra đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm hay tập quán
về hàng hải quốc tế mà tổ chức đã đưa ra áp dụng cho những khu vực đặc biệt.Các
luật và quy định này chỉ được áp dụng đối với các tàu thuyền nước ngoài sau một
thời hạn là 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức;
Quốc gia ven biển công bố các giới hạn của các khu vực đặc
biệt và được xác định rõ ràng này;
Khi làm thông báo kể trên, quốc gia ven biển cần đồng thời
nói rõ cho tổ chức rằng họ có ý định thông qua, cho khu vực mà họ đề cập, những
luật và quy định bổ sung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
do tàu thuyền gây ra hay không. Các luật và quy dịnh bổ sung này có thể đề cập
việc thải bỏ hay những tập quán hàng hải, nhưng không bắt buộc các tàu thuyền
nước ngoài phải tôn trọng các tiêu chuẩn khác về mặt thiết kế, cấu trúc và
trang bị, ngoài các quy tắc và quy phạm quốc tế đẵ được chấp nhận chung; các luật
và quy định bổ sung này có thế áp dụng cho tàu thuyền nước ngoài, sau 15 tháng
kể từ ngày thông báo cho tổ chức này, với điều kiện là tổ chức này, trong một
thời hạn là 12 tháng, kể từ ngày được thông báo, đã chuẩn y các luật và quy định
bổ sung nói trên.
Các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở điều này còn cần trù định
nghĩa vụ phải thông báo ngay lập tức cho các quốc gia ven biển mà vùng duyên hải
hay các lợi ích liên quan của họ có nguy cơ bị những tai nạn trên biển tác động
đến, nhất là những tai nạn dẫn đến hay có nguy cơ dẫn đến những việc thải bỏ.
ĐIỀU 212. Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu
khí quyển
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển có
nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển, các quốc gia thông qua các luật
và quy định áp dụng ở vùng trời thuộc chủ quyền của mình và áp dụng cho các tàu
thuyền mang cờ của mình hay cho các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay mà mình
cho đăng ký, có tính đến các quy tắc quy phạm, cũng như những tập quán và thủ tục
được kiến nghị, và đã được chấp nhận trên phạm vi quốc tế vá có tính đến an
toàn hàng không.
Các quốc gia thi hành các biện pháp khác có thể cấn thiết để
ngăn giữ, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian cảu các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua
các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị trên
phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
Mục 6. VIỆC ÁP DỤNG
ĐIỀU 213. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm xuất
phát từ đất
Các quốc gia đảm bảo việc áp dụng các luật và quy định và
thi hành theo đúng Điều 207; Các quốc gia thông qua luật và quy định và thi
hành các biện pháp cần thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt nguồn từ đất.
ĐIỀU 214. Việc áp dụng các quy định liên quan đến ô nhiễm do
các hoạt động liên quan đến đáy biển gây ra
Các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật và quy định đã được
thông qua theo đúng Điều 208; họ thông qua các luật và các quy định và thi hành
các biện pháp cấn thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm quốc
tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường do các hoạt động liên quan đến đáy biển và thuộc quyền tài phán của
mình, trực tiếp hay gián tiếp gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các
thiết bị và công trình được đặt dưới quyền tài phán của mình theo các Điều 60
và 80.
ĐIỀU 215. Việc áp dụng quy định quốc tế liên quan đến ô nhiễm
do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra
Việc áp dụng quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được xây dựng
theo đúng Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển gây
ra bởi các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh.
ĐIỀU 216. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm do việc
nhận chìm
Các luật và quy định được thông qua theo đúng Công ước và
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa,hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bởi việc nhận chìm do các đối tượng sau
đây thi hành:
Quốc gia ven biển, đối với việc nhận chìm nằm trong giới hạn
của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình;
Quốc gia mà tàu mang cờ, đối với các tàu thuyền mang cờ của
mình hay các tàu hay phương tiện bay mà mình cho đăng ký;
Bất kỳ quốc gia nào, đối với việc đưa ra chất cặn bã hay các
chất khác lên lãnh thổ của mình hay lên các công trình cảng cuối cùng ra khơi.
Theo điều này, không quốc gia nào được khởi tố, khi vụ kiện
đã được một quốc gia khác khởi tố cũng theo đúng điều này.
ĐIỀU 217. Các quyền hạn của các quốc gia mà tàu mang cờ
Các quốc gia quan tâm đến việc tàu thuyền mang cờ của mình
hay được mình cho đăng ký tôn trọng các quy tắc và quay phạm quốc tế có thể áp
dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một
hội nghị ngoại giao chung, cũng như các luật và quy định mà các quốc gia này đã
thông qua theo đúng Công ước để ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển do tàu thuyền gây ra và họ thông qua các quy luật và quy định, và thi hành
các biện pháp cần thiết để đem lại hiệu lực cho các quy luật và quy định đó. Quốc
gia mà tàu mang cờ phải quan tâm đến việc các quy tắc, quy phạm, luật và quy định
này được áp dụng một cách có hiệu quả, bất kể việc vi phạm xảy ra ở đâu.
Đặc biệt, các quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp để cấm
các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký chuẩn bị nhổ
neo, chừng nào chúng không tuân theo đúng các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở
khoản 1, kể các quy định liên quan đến cách thiết kế, cấu trúc, và trang bị của
tàu thuyền.
Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ của nước
mình hay được mình cho đăng ký phải có đủ các chứng từ cấn thiết và được cấp
theo các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1. Các quốc gia quan tâm đến
việc các tàu thuyền mang cờ nước mình phải được kiểm tra định kỳ xác minh xem lời
ghi chú ở trên các chứng từ này có phù hợp với tình trạng thực tế của con tàu
hay không. Các quốc gia khác chấp nhận các chứng từ này cũng có giá trị như là
những chứng từ mà mình cấp, trừ khi có lý do xác đáng để cho rằng tình trạng
con tàu trong một chừng mực quan trọng không phù hợp với các ghi chú ở trên các
chứng từ này.
Nếu một con tàu vi phạm các quy tắc và quy định được xây dựng
qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao chung, quốc gia cho tàu mang cờ, với điều kiện không phương hại tới các Điều
218, 220 và 228, phải lập tức tiến hành mọi cuộc điều tra và, nếu thấy cần thì,
khởi tố đối với vụ vi phạm được suy đoán đó, bất kể nơi xảy ra vụ vi phạm này
hay vị trí mà nạn ô nhiễm do vụ vi phạm gây ra đã xảy ra hoặc được xác nhận là ở
đâu.
Khi tiến hành điều tra vụ vi phạm, quốc gia mà tàu mang cờ
có thể yêu cầu sự giúp đỡ của mọi quốc gia khác mà sự hợp tác có thể có ích để
làm sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc. Các quốc gia cố gắng đáp ứng các yêu cầu
thích hợp của các quốc gia mà tàu mang cờ.
Theo yêu cầu bằng văn bản của một quốc gia,các quốc gia phải
tiến hành điều tra về mọi vi phạm do tàu thuyền mang cờ của họ có thể đã phạm
phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành không chậm trễ việc truy tố về nội
dung chính của sự vi phạm đã được suy đoán theo đúng luật trong nước của mình,
nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng cứ để tiến hành công việc này.
Quốc gia mà tàu mang cờ thông báo ngay cho quốc gia yêu cầu
và tổ chức quốc tế có thẩm quyền về vụ việc đã được khởi tố và kết quả của nó.
Tất cả các quốc gia đều được tiếp xúc với những thông tin đã được thông báo đó.
Những chế tài được trù định trong các quy luật và quy định của
quốc gia đối với các tàu thuyền mang cờ của mình cần phải nghiêm khắc để hạn chế
các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu.
ĐIỀU 218. Các quyền hạn của quốc gia có cảng
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt ở trong một cảng hay ở một
công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng có thể mở một cuộc điều
tra và, khi có các chứng cứ để chứng minh, có thể khởi tố đối với bất kỳ sự thải
đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoại nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về
kinh tế của mình, vi phạm các luật và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây
dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao chung.
Quốc gia có cảng không thể khởi tố theo khoản 1 đối với một
vụ vi phạm do việc thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoài nội thủy, lãnh hải
hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hoặc là quốc gia mà tàu mang cờ hay quốc
gia đã chịu, hay có nguy cơ phải chịu, các tổn thất do việc thải đổ này gây ra
yêu cầu.
Khi một con tàu tự ý có mặt trong một cảng hay ở một công
trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng cố gắng chấp nhận những đơn
yêu cầu điều tra của bất kỳ quốc gia nào khác về việc thải đổ có khả năng gây
ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay
vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia yêu cầu, và có thể đã gây ô nhiễm hay có
nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này. Quốc gia có cảng cũng cố gắng chấp nhận
đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà tàu mang cờ về những vi phạm như thế, bất
kể các vụ vi phạm này có thể xảy ra ở đâu.
Hồ sơ điều tra do quốc gia có cảng tiến hành theo điều này
được chuyển cho quốc gia mà tàu mang cờ hay cho quốc gia ven biển theo yêu cầu
của các quốc gia này. Bất kỳ việc nào do quốc gia có cảng khởi tố dựa trên cơ sở
của cuộc điều tra này, có thể bị đình chỉ theo yêu cầu của quốc gia ven biển, với
điều kiện phải tuân theo các quy định của Mục 7, khi vụ vi phạm đã xảy ra trong
nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển này. Khi
đó những chứng cứ, hồ sơ về sự việc, cũng như mọi sự bảo lãnh hay đảm bảo tài
chính đã được gửi cho những nhà đương cục của quốc gia có cảng phải được chuyển
cho quốc gia ven biển. Sau khi chuyển giao hồ sơ, quốc gia có cảng không theo
đuổi vụ kiện nữa.
ĐIỀU 219. Các biện pháp kiểm tra khả năng đi biển nhằm tránh
ô nhiễm
Với điều kiện tuân thủ Mục 7, khi các quốc gia, theo yêu cầu
hay tự ý mình xác định rằng một con tàu đang ở một trong các cảng của mình hay ở
một trong các công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi của mình đã vi phạm các
qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng liên quan đến khả năng đi biển của
tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra thiệt hại cho môi trường biển, cần thi
hành các biện pháp hành chính trong phạm vi khả năng của mình để ngăn không cho
chiếc tàu này rời bến. Các quốc gia này chỉ cho phép chiếc tàu này đi vào xưởng
sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi đã loại trừ các nguyên nhân gây ra vi
phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu này tiếp tục hành trình của mình ngay
lập tức.
ĐIỀU 220. Các quyền hạn của quốc gia ven biển
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt trong cảng hay ở một công
trình cảng cuối cùng ngoài khơi với điều kiện tuân thủ Mục 7, quốc gia có cảng
có thể khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi với các luật và quy định mà mình đã
thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng các qui tắc và quy phạm quốc tế có
thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, nếu
vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng cho rằng chiếc tàu trong
lúc đi qua lãnh hải của mình đã vi phạm các luật và quy định mà mình đã thông
qua theo đúng công ước hay các nguyên tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra thì quốc gia này
có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu đã gây ra vụ vi phạm, nhưng không
làm phương hại đến việc áp dụng các quy định thích hợp của Mục 3 thuộc phần II,
và, khi có các chứng cứ để chứng minh được điều đó thì có thể khởi tố và đặc biệt
có thể ra lệnh giữ chiếc tàu theo đúng luật trong nước của mình, với điều kiện
phải tuân thủ theo quy định của Mục 7.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng để cho rằng một con tàu
đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã vi phạm các
quy tắc và quy phạm quốc tế đó và đem lại hiệu lực cho chúng, quốc gia này có
thể yêu cầu con tàu cung cấp các thông tin liên quan đến lý lịch và cảng đăng
ký của tàu, cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của tàu và các thông tin thích hợp
cần thiết khác để xác định có phải một vụ vi phạm đã xảy ra không.
Các quốc gia thông qua các luật và qui định và thi hành các
biện pháp cần thiết cho các tàu thuyền mang cờ của mình đáp ứng các yêu cầu về
thông tin đã nêu ở khoản 3.
Khi một quốc gia có các lý do xác đáng để cho rằng một chiếc
tàu đi trong đặc quyền kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã gây ra một vụ vi
phạm trong vùng đặc quyền kinh tế đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ
nghiêm trọng vào môi trường biển, đã gây ra hoặc có nguy cơ gây ra ở môi trường
biển này một vụ ô nhiễm đáng kể, quốc gia có thể tiến hành kiểm tra cụ thể con
tàu để xác minh xem có phải đã có sự vi phạm không, nếu như con tàu từ chối
không đưa ra các thông tin, hay nếu những thông tin được cung cấp mâu thuẫn rõ
ràng với sự thật, và nếu các hoàn cảnh của sự việc lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi có chứng cứ chứng tỏ rằng một chiếc tàu đi trong vùng đặc
quyền về kinh tế hay lãnh hải của một quốc gia đã gây ra trong vùng đặc quyền về
kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ gây hoặc có
nguy cơ gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho vùng duyên hải hay cho các lợi
ích có liên quan của quốc gia ven biển hay cho tất cả tài nguyên của lãnh hải
hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, thì quốc gia đó, với điều kiện tuân thủ
Mục 7 và nếu có các chứng cứ chứng minh được điều trên, có thể tiến hành khởi tố,
nhất là ra lệnh giữ con tàu lại theo đúng luật trong nước của mình.
Mặc dù đã có khoản 6, trong mọi trường hợp mà các thủ tục
thích hợp đã được đặt ra qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, hoặc
do thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn trọng các nghĩa vụ liên quan đến việc nộp
tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một khoản bảo đảm tài chính thích hợp khác, nếu
như quốc gia ven biển có bị các thủ tục đó ràng buộc, thì quốc gia đó cho phép
chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 cũng được áp dụng vào các luật và
quy định quốc gia được thông qua theo điều 211, khoản 6.
ĐIỀU 221. Các biện pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm tiếp theo sau
một tai nạn xảy ra trên biển
Không một qui định nào của phần này đụng đến các quyền của
các quốc gia, theo pháp luật quốc tế, kể cả tập quán lẫn theo công ước, định ra
và tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải các biện pháp cân xứng với những thiệt hại
mà các quốc gia này đã thật sự phải chịu đựng hay bị đe dọa phải chịu nhằm bảo
vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có liên quan của mình, kể cả việc đánh bắt hải
sản, chống nạn ô nhiễm hay đe dọa ô nhiễm do một tai nạn xảy ra trên biển hoặc
do những hành vi gắn liền với một tai nạn như vậy gây ra mà người ta có căn cứ
để chờ đợi những hậu quả tai hại.
Trong điều này, thì “tai nạn trên biển” có nghĩa là một vụ
đâm va, mắc cạn hay sự cố hàng hải khác hoặc sự kiện xảy ra ở trên hay ở một
con tàu gây ra những thiệt hại về vật chất hay đe dọa sắp gây ra những thiệt hại
về vật chất cho một chiếc tàu hay hàng hóa của nó.
ĐIỀU 222. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm có nguồn
gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển…
Trong giới hạn của vùng trời thuộc chủ quyền của mình hay đối
với các tàu thuyền mang cờ của mình hoặc các tàu hay phương tiện bay được mình
cho đăng ký, các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật, quy định mà mình đã
thông qua theo đúng điều 212, khoản 1, theo đúng các quy định khác của Công ước,
thông qua các luật và qui định, thi hành các biện pháp khác để phát huy hiệu lực
của các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển
hay xuyên qua bầu khí quyển, theo đúng tất cả các quy tắc và quy phạm quốc tế
tương ứng liên quan đến an toàn hàng không.
Mục 7. CÁC BẢO ĐẢM
ĐIỀU 223. Các biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
triển khai một vụ kiện
Khi có một vụ kiện do áp dụng phần này, các quốc gia thi
hành các biện pháp để tạo thuận lợi cho việc nghe nhân chứng và thu nhận các chứng
cứ do các nhà đương cục của một quốc gia khác hay do tổ chức quốc tế có thẩm
quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia các phiên tòa của
các đại biểu chính thức của tổ chức này, của quốc gia mà tàu mang cờ hay của bất
kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn ô nhiễm nảy sinh từ mọi vi phạm. Các đại
biểu chính thức tham gia các phiên tòa này có quyền và nghĩa vụ do luật trong
nước hay pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 224. Việc thi hành các quyền cảnh sát
Chỉ có những nhân viên chính thức có đủ tư cách, cũng như
các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự hay các tàu thuyền hoặc các phương tiện
bay khác có mang những dấu hiệu bên ngoài chứng tỏ rõ ràng rằng chúng thuộc một
cơ quan nhà nước và được phép tiến hành công việc đó, có thể thi hành các việc
cảnh sát đối với các tàu thuyền nước ngoài theo phần này.
ĐIỀU 225. Nghĩa vụ đối với các quốc gia tránh các hậu quả
tai hại có thể xảy ra trong khi thi hành các quyền cảnh sát của họ
Khi thi hành quyền cảnh sát của mình đối với tàu thuyền nước
ngoài theo Công ước, các quốc gia không được gây ra nguy hiểm cho an toàn hàng
hải, không được gây ra một rủi ro nào cho một con tàu hay dẫn con tàu đó về một
cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng không gây ra rủi ro quá đáng cho môi trường
biển.
ĐIỀU 226. Các cuộc điều tra có thể được tiến hành đối với
tàu thuyền nước ngoài
a) Các quốc gia không được giữ một chiếc tàu nước ngoài lâu
quá mức cần thiết để tiến hành các cuộc điều tra đã được trù định ở các Điều
216, 218 và 220. Việc kiểm tra cụ thể một chiếc tàu nước ngoài phải được giới hạn
ở việc xem xét các chứng từ, sổ đăng ký hay các tài liệu khác mà chiếc tàu có
nhiệm vụ phải mang theo, theo các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận
chung, hay mọi tài liệu tương tự; chỉ có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc
tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem xét này và với điều duy nhất là:
Có các lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu hay
trang thiết bị của nó về cơ bản không phù hợp với những ghi chú ở trên các tài
liệu.
Nội dung của các tài liệu này không đủ để xác minh và thẩm
tra vụ vi phạm đã được suy đoán.
Con tàu không mang theo các chứng từ và tài liệu có giá trị.
b) Khi qua cuộc điều tra mà thấy rằng đã có sự vi phạm các
luật và qui định có thể áp dụng hay các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển, sau khi con tàu đã hoàn thành các thể thức hợp lý,
như việc ký gửi một khoản tiền bảo lãnh hoặc một khoản bảo đảm tài chính khác,
thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ.
c) Không làm phương hại đến các quy tắc và quy phạm quốc tế
có thể áp dụng về mặt khả năng đi biển của tàu thuyền, nếu việc chấm dứt cầm giữ
một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn tới thiệt hại do khinh suất đối với môi trường biển,
thì con tàu nói trên có thể không được phép tiếp tục cuộc hành trình, hoặc được
phép nhưng với điều kiện là phải đi đến xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất.
Trong trường hợp mà việc chấm dứt cầm giữ con tàu bị từ chối hay bị đặt các điều
kiện, thì quốc gia mà tàu mang cờ phải được thông báo ngay về việc này và có thể
yêu cầu chấm dứt việc cầm giữ này theo đúng phần XV.
2. Các quốc gia hợp tác để soạn thảo các thủ tục nhằm tránh
khỏi việc kiểm tra cụ thể thừa đối với tàu thuyền trên biển.
ĐIỀU 227. Việc không phân biệt đối xử với tàu thuyền nước
ngoài
Khi thi hành các quyền và làm tròn các nghĩa vụ của mình
theo phần này, các quốc gia không được bắt các tàu thuyền của một quốc gia nào khác
phải chịu một sự phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế.
ĐIỀU 228. Việc đình chỉ các cuộc truy tố và các hạn chế đối
với việc truy tố
Khi một quốc gia tiến hành các cuộc truy tố nhằm trừng phạt
một vi phạm do một chiếc tàu nước ngoài gây ra ở bên ngoài lãnh hải của quốc
gia trên đối với các luật và quy định có thể áp dụng hay các quy tắc và qui phạm
quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, thì
các cuộc truy tố này phải bị đình chỉ ngay sau khi quốc gia mà tàu mang cờ đã tự
mình tiến hành các cuộc truy tố đối với nội dung chính của vụ vi phạm nói trên,
trong vòng 6 tháng tiếp theo việc khởi tố đầu tiên, trừ khi việc khởi tố này nhằm
vào một trường hợp đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia ven biển, hay quốc
gia mà tàu mang cờ nói trên đã nhiều lần không làm tròn nghĩa vụ của mình để bảo
đảm áp dụng thực sự các quy tắc và các quy phạm quốc tế hiện hành đối với các vụ
vi phạm do tàu thuyền của mình gây ra. Quốc gia mà tàu mang cờ khi đã yêu cầu
đình chỉ các cuộc truy tố theo đúng điều này trao lại trong thời gian thích hợp
cho quốc gia đầu tiên một hồ sơ đầy đủ về sự việc và các văn bản gốc của vụ án.
Khi các tòa án của quốc gia mà tàu mang cờ đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải
chấm dứt sau khi đã thanh toán xong các chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền
bảo lãnh hay khoản bảo đảm tài chính nào khác được ký gửi khi tiến hành các cuộc
truy tố này đều phải được quốc gia ven biển trả lại.
Không thể tiến hành các cuộc truy tố đối với tàu thuyền nước
ngoài sau thời hạn 3 năm kể từ ngày vi phạm, và không quốc gia nào có thể tiến
hành rồi, với điều kiện phải tuân thủ khoản 1.
Điều này không đụng chạm đến quyền của quốc gia mà tàu mang
cờ sử dụng mọi biện pháp, kể cả quyền tiến hành các cuộc truy tố, theo đúng luật
trong nước của mình, không phụ thuộc vào các cuộc truy tố do một quốc gia khác
tiến hành trước.
ĐIỀU 229. Việc kiện về trách nhiệm dân sự
Không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến quyền khởi
tố về trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra những thiệt hại hay tổn thất
do ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 230. Các hình thức sử phạt bằng tiền và việc tôn trọng
quyền bào chữa
Đối với trường hợp vi phạm các luật và quy định quốc gia hay
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền nước ngoài gây ra ở ngoài lãnh hải
thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền.
Đối với tình trạng vi phạm các luật và quy định quốc gia hay
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, do một tàu nước ngoài gây ra ở trong lãnh hải, thì
chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền, trừ trường hợp đó là một hành động cố ý
và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong tiến trình các cuôc truy tố đã được tiến hành nhằm trừng
phạt các vụ vi phạm thuộc lọai này do một tàu nước ngoài phạm phải mà chiếc tàu
có thể phải chịu đụng những hình thức xử phạt, các quyền được thừa nhận của bị
cáo vẫn được tôn trọng.
ĐIỀU 231. Việc tôn trọng thông báo cho quốc gia mà tàu mang
cờ và cho các quốc gia hữu quan khác
Các quốc gia thông báo không chậm trễ cho các quốc gia mà
tàu mang cờ và cho mọi quốc gia hữu quan khác tất cả các biện pháp được sử dụng
với tàu thuyền nước ngoài trong việc áp dụng Mục 6, và giao cho quốc gia mà tàu
mang cờ tất cả các báo cáo chính thức có liên quan đến biện pháp này. Tuy
nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy ra trong lãnh hải, quốc gia ven biển
chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các biện pháp đuợc dùng trong khuôn khổ
các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao hay các viên chức lãnh sự, và trong
trường hợp có thể được, nhà đương cục về biển của quốc gia mà tàu mang cờ được
thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc loại này.
ĐIỀU 232. Trách nhiệm của các quốc gia về biện pháp thi hành
Các quốc gia chịu trách nhiệm về những thiệt hại và tổn thất
có thể qui cho họ do các biện pháp đã được sử dụng trong việc áp dụng Mục 6,
khi các biện pháp này là bất hợp pháp hay vượt quá mức cần thiết hợp lý, có xét
đến các thông tin sẵn có.
ĐIẾU 233. Các bảo đảm liên quan đến các eo biển dung cho
hàng hải quốc tế
Không một quy định nào của Mục 5, 7 và 6 đụng chạm đến chế độ
pháp lý của các eo dùng cho hàng hải quốc tế. Tuy nhiên, nếu một chiếc tàu nước
ngoài không phải là các tàu thuyền đã nêu ở Mục 10 vi phạm các luật và quy định
đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a, và b, gây ra hay đe dọa gây ra các thiệt hại
nghiêm trọng cho môi trường biển của các eo biển, thì quốc gia có eo biển có thể
thi hành các biện pháp cảnh sát thích hợp, trong khi vẫn tôn trọng mutatis
mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) mục này.
Mục 8. NHỮNG KHU VỰC BỊ BĂNG BAO PHỦ
ĐIỀU 234. Các khu vực bị băng bao phủ
Các quốc gia ven biển có quyền thông quan và tiến hành áp dụng
các luật và quy định không phân biệt đối xử nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra trong khu vực bị băng bao phủ và nằm
trong ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế, khi các điều kiện khí hậu đặc biệt
khắc nghiệt và việc các khu vực bao phủ phần lớn thời gian trong một năm gây trở
ngại cho hàng hải hoặc hoặc làm cho việc hàng hải trở nên đặc biệt nguy hiểm,
và nạn ô nhiễm môi trường biển có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng
sinh thái hay làm rối lọan sự cân bằng này một cách không thể hồi phục được.
Các luật và quy định này phải lưu ý thích đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển trên cơ sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn nhất
mà người ta có thể có được.
Mục 9. TRÁCH NHIỆM
ĐIỀU 235. Trách nhiệm
Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các
nghĩa vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc
gia có trách nhiệm theo đúng luật quốc tế.
Quốc gia quan tâm làm sao cho luật trong nước của mình có được
những hình thức tố tụng cho phép thu được sự đền bù nhanh chóng và thích đáng,
hay sự bồi thường khác đối với những thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường
do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền tài phán của mình gây ra.
Để bảo đảm một sự đền bù nhanh chóng và thích đáng mọi thiệt
hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm áp
dụng và phát triển luật quốc tế về trách nhiệm có liên quan đến việc đánh giá
và bồi thường các thiệt hại và việc giải quyết các tranh chấp về mặt này, cũng
như, nếu có thể, đến việc soạn thảo các tranh chấp và thủ tục để thanh toán tiền
bồi thường thích đáng, chẳng hạn trù định một khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi
thường.
Mục 10.VIỆC MIỄN TRỪ CÓ TÍNH CHẤT CHỦ QUYỀN
ĐIỀU 236. Việc miễn trừ có tính chất chủ quyền
Các quy định của Công ước liên quan đến việc bảo vệ và gìn
giữ môi trường biển không áp dụng đối với các tàu chiến hay tàu thuyền bổ trợ,
cũng như đối với các tàu thuyền khác hay đối với các phương tiện bay thuộc một
quốc gia hay do quốc gia này, khai thác, khi trong thời gian xem xét, quốc gia
này chỉ sử dụng chúng vào những mục đích công vụ không có tính chất thương mại.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp không ảnh hưởng đến
các hoạt động hay khả năng hoạt động của tàu thuyền hay phương tiện bay thuộc
mình hay do mình khai thác, sao cho các tàu thuyền hay phương tiện bay này hành
động một cách thích hợp với Công ước trong chừng mực có thể làm được.
Mục 11. NGHĨA VỤ PHÁT SINH TỪ CÁC CÔNG ƯỚC KHÁC VỀ VIỆC BẢO
VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 237. Các nghĩa vụ phát sinh từ các công ước khác về việc
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
Phần này không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ riêng thuộc bổn phận
của các quốc gia theo các công ước hay điều ước đặc thù được ký kết trước đây về
mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, cũng không ảnh hưởng đến các điều ước có
thể được ký kết để áp dụng các nguyên tắc chung đã được nêu trong Công ước.
Các quốc gia phải làm tròn các nghĩa vụ riêng thuộc phận sự
của mình có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Công ước
đặc biệt, một cách thích hợp với các nguyên tắc và mục tiêu chung của Công ước.
[1] Bản dịch tiếng Việt của Bộ Ngoại giao.
(xem tiếp phần 3)Theo thuvienphapluat
Nhận xét
Đăng nhận xét