Nằm trong tiếng nói yêu thương…

       Chia sẻ là hạnh phúc
       Nằm trong tiếng nói yêu thương…
       “Nằm trong tiếng nói yêu thương, Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời…” Thi sĩ Huy Cận đã nói hộ cho chúng ta bằng những dòng thơ trong trẻo, đậm đà như thế. Thời học sinh, tôi đã dành tiền mua những tập thơ bỏ túi và tôi yêu bài thơ ngắn ấy từ đó. Hôm nay nghe các cháu trong mấy trường “quốc tế” trọ trẹ, bất giác tôi lại thương câu thơ như rứt ruột sinh thành của ông...
        “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.” Tôi vẫn nghĩ về câu nói ấy bằng niềm tự hào. Tiếng Việt thách đố cả người bản ngữ chứ không đợi gì người nước ngoài. Cũng từ ngữ đó, cũng câu chữ đó, nhưng trong tiếng Việt, ở mỗi tình huống người nghe phải hiểu khác nhau. Và cùng một thông điệp nhưng có khi lại được nói thế này, có lúc lại nói thế kia. Lời ăn tiếng nói đầy hàm ẩn, kín đáo biểu hiện cốt cách của cả một dân tộc. Nếu thay vì chỉ nói “green” (màu xanh) thì tiếng Việt lại có cả một lớp từ riêng để chúng ta tha hồ nói sao cho cụ thể, chi tiết hơn: xanh, xanh đậm, xanh nhạt, xanh non, xanh đọt chuối, xanh lá mạ, xanh rêu, xanh ngọc,… Sự đa dạng, phong phú của vốn từ hay là tính cách tinh tế, giàu tình cảm của dân tộc Việt Nam. Không phải giao tiếp với người nào, người Việt cũng xưng I (tôi) gọi you (bạn). Tuỳ ngữ cảnh, tuỳ đối tượng, vai trò mà lựa chọn ngôn từ phù hợp. Mỗi cặp đại từ xưng gọi trong tiếng Việt đều có sắc thái biểu cảm, ý nghĩa giao tiếp riêng. Có thể nói vốn từ tiếng Việt ít trung tính phải chăng phản ánh một nét tính cách của dân tộc ta: Mọi thứ đều phải được phân biệt rõ ràng, khúc chiết. Mỗi một ngôn ngữ có một vẻ đẹp riêng và đại diện cho dân tộc mà nó được sinh ra và tồn tại vì dân tộc đó. Tiếng Việt sinh ra vì dân tộc Việt Nam, vì dân tộc Việt Nam mà tồn tại. Không một sự ngợi ca nào có thể đủ tụng ca hết vẻ đẹp của tiếng Việt yêu thương.


Hai trang sách Tiếng Việt 1  trước đây

         Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy tính lâu đời và quan trọng của tiếng Việt, văn hoá Việt trong tiến trình lịch sử khu vực. Lịch sử dựng nước của dân tộc ta gắn liền với lịch sử giữ nước. Không một chủ để nào trong lịch sử dân tộc Việt Nam quan trọng và xuyên suốt hơn chủ để giữ nước. Trong những thứ phải giữ của nước ấy, có việc giữ tiếng nói của dân tộc. Nhiều thế hệ vẫn tự hào rằng dù bị ngàn năm đô hộ nhưng dân tộc ta vẫn giữ được tiếng nói của mình. Niềm tự hào ấy phải chăng xuất phát từ nhận thức có tiếng nói riêng là dấu hiệu khu biệt một dân tộc này với một dân tộc khác? Chính nhận thức sâu sắc, chuẩn mực ấy mà người Việt từ cổ chí kim đã không ngừng tìm mọi cách để lưu truyền, phát triển tiếng nói dân tộc. Ông cha ta đã vay mượn chữ Hán để sáng tạo ra chữ Nôm ghi lại tiếng mẹ đẻ của mình. Thế kỉ hai mươi, tiếp bước người xưa, những thế hệ tiền bối đã cố gắng vận dụng hệ thống chữ cái Latin để ghi lại sinh động, chính xác hơn nữa tiếng Việt. Màu sắc, phong vị, cốt cách dân tộc đã được ghi lại bằng chính tiếng Việt. Cùng dân tộc Việt Nam gian khổ bước ra khỏi đêm trường nô lệ, mùa thu tháng Tám 1945, nước Việt Nam mới ra đời, dân tộc Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới, tiếng Việt được ngẩng cao đầu trở thành ngôn ngữ chính thức của một dân tộc, một quốc gia độc lập, chủ quyền, thống nhất.
         Tiếng Việt, một tiếng nói gắn liền cùng sinh mệnh dân tộc suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước luôn xứng đáng là biểu tượng tinh thần cho sự bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đang sống trọng một thời đại được gọi là thời đại của “thế giới phẳng”. “Phẳng” trong trí tuệ, thông tin,… nhưng chớ “phẳng” cả ý thức giống nòi. Có người từng nói rằng tiếng ta còn thì nước ta còn với tôi như một lời nhắc nhở sâu xa...


Trần phong

Nhận xét

BÀI VIẾT ĐƯỢC QUAN TÂM NHẤT

VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ RABINDRANATH TAGORE

CHUYẾN ĐÒ QUÊ HƯƠNG

Cưới hỏi ngày ấy, ơi thương...

THƯƠNG HIỆU CÁ NHÂN

Vị quê nhà

Về quê

Nghĩa trang liệt sĩ người Trung Quốc ở Việt Nam: hình ảnh cho một dân tộc sống nhân nghĩa

GIÁO DỤC VIỆT NAM KHI TRƯỜNG "QUỐC TẾ" Ở VIỆT NAM