Cưới hỏi ngày ấy, ơi thương...

         Chia sẻ là hạnh phúc

         Mùa xuân mùa cưới. Không biết bao giờ hai từ ấy đã tình tứ sánh vai nhau mỗi khi tiết trời bắt đầu hanh hao, hiu hiu con gió trở mình…
http://www.zidean.com/thiet-ke/ruoc_dau_o_mien_tay/

        Mỗi lúc nhận được thiệp hồng tôi lại nghe bồi hồi khôn tả, mừng cho ai đó sắp có đôi, có bạn. Với tôi, lễ cưới có một ý nghĩa rất thiêng liêng. Nó là chứng nhân sinh động cho một tình yêu, là sự công nhận của cộng đồng đối với một cuộc trăm năm. Những nét đẹp trong cưới hỏi của những ngày chưa xa ấy nơi quê nhà như những dư ba vỗ nhẹ lòng tôi.
         Trai gái đến tuổi dựng vợ gả chồng, dù có cảm tình trước, đều do cha mẹ nhờ mai mối làm nhịp cầu duyên. Cái đầu heo cho ông mai chỉ là câu nói vui lúc trà dư tửu hậu. Nhà trai nhờ người đánh tiếng trước để được đến nhà gái dạm hỏi, gọi là đi “coi mắt”. Tuần tự là “coi mắt”, “xuống mối”, nạp tài, ăn hỏi, xuất giá, rước dâu, phản bái. Đặc biệt, phải chăng hình ảnh thuỷ chung, gắn bó của đôi thiên nga đã được nhân dân biến cách thành cặp vịt khi đến nhà gái từ lần đầu tiên. Sáu bảy lễ lớn nhỏ, có tốn kém thật nên đâu đó vẫn ghép lễ hỏi với lễ cưới lại gọi là “hai đám nhập một”. Chiếc xuồng rồi chiếc võ lãi (tắc ráng) gắn máy đuôi tôm băng băng trên sóng nước như một nét duyên của đám rước dâu ở một vùng quê bốn mùa lã chã. Có lần hình ảnh chiếc ghe bầu chồng chành đi đón dâu đã thành kí ức đẹp khi nhớ lại đám gả chị tôi.
        Chiều nhóm họ, cánh đàn ông bắt đầu mổ lợn để thợ nấu ra thịt chuẩn bị làm cỗ. Đám con nít chúng tôi thì cứ lóng ngóng đợi ăn “bánh chè”. Đằng trước, những thanh niên trong xóm chăm hút lần cuối cho một chiếc rạp độc đáo chỉ toàn “cây nhà lá vườn”. Nếu cha tôi không ngăn thì họ đã lẳng cả lá dừa non về bẻ cửa nhà nguyệt. Một màu trắng nền nã của dừa tơ tôi chí dám trầm trồ khi đứng cạnh dưới bến chia tay anh chị. Tiếng nhạc bắt đầu sập sình, rộn ràng át cả tiếng máy kéo đèn tạch tạch. Trong bếp, ngày nhóm họ của các bà, các cô đã đến từ mấy ngày thậm chí cả tuần trước. Bao nhiêu tài năng nữ công, họ như chỉ đợi đến cưới hỏi mới phô diễn ra như một “festival bánh”. Tiếng nói, tiếng cười giòn tan của họ như quá tải với gian bếp nhà tôi. Khi trăng mười sáu lên đến ngọn dừa, người ta dọn cháo khuya, khi ngà ngà say, trai gái, già trẻ bắt đầu đàn ca, những bản nhạc mừng đôi lứa, tân nhạc có, cổ nhạc có, được nồng nhiệt “trình tấu” thay những lời chúc hoa mĩ. Mọi người vui đến khuya rồi tạm yên lặng cho lễ xuất giá, rồi lại hát ca, nhảy nhót đến tờ mờ sáng.
         Bây giờ vẫn thấy hình ảnh đôi đèn, thấy người ta vẫn xếp đặt trầu cau bán cho lễ cưới tôi vẫn thầm vui. Không nhất thiết đôi đèn phải đính long phụng nhưng ngày ấy trình họ nhà gái bao giờ đôi đèn, trầu cau, khay rượu cũng là ba thứ lễ vật bắt buộc của cả lễ hỏi và lễ cưới mà nhà trai phải chuẩn bị. Đôi đèn với ánh sáng ấm áp là biểu tượng của sự sum vầy, no ấm. Ở quê tôi, hết dầu thắp sáng ở đâu, ở đâu tắt đèn nhưng trên bàn thờ gia tiên luôn mờ tỏ một ngọn đèn chong. Mâm trầu (cau) vẫn đi đầu các mâm lễ, tự tay chú lễ đưa đến. Trầu cau được sắp đặt cẩn thận bằng một búp sen hồng được làm rất công phu, cô dâu với chú rễ phải đem vào phòng mới được  “xoay mâm trầu”. Ý nghĩa cao quí của trầu cau trải qua bao biến thiên vẫn vẹn nguyên trong mỹ tục của người Việt Nam. Chỉ có ở dân tộc này trầu cau mới trở thành một lễ vật của mọi cuộc lễ. Đôi đèn, mâm trầu cau có thể mua, nhưng khay trầu rượu, lễ vật thứ ba phải đi mượn,bắt đầu “xuống mối” là phải có khay trầu rượu. Bánh trái, trà rượu sau ba lễ vật ấy đều được bọc kín tươm tất trong giấy kiếng đỏ hồng. Ngày đó, mỗi khi cho quà cưới, các bà mẹ chồng đều ý nhị tặng nàng dâu một cặp gối “giao đầu” thêu đôi uyên ương, chiếc nón lá, cái rương đựng tư trang… Nếu đàng trai đến sớm hơn giờ hoàng đạo thì phải đợi đúng giờ mới được vào trình lễ.

          Nó đã xưa cũ, lỗi thời chưa, sao tôi vẫn thấy rất đậm đà, thật bình dị mà cũng thật tinh tế. Cưới hỏi, giỗ chạp ngày ấy là dịp để tình làng nghĩa xóm thêm thắt chặt. Họ giúp “vần công” như thế tự bao đời nay. Chuyện tóc tơ đâu phải việc tầm thường để qua quýt, một lễ cưới tưng bừng cho một đời người cũng đáng mà. 

Trần phong
BIỆN QUỐC TRỌNG

Nhận xét

BÀI VIẾT ĐƯỢC QUAN TÂM NHẤT

VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ RABINDRANATH TAGORE

Nằm trong tiếng nói yêu thương…

CHUYẾN ĐÒ QUÊ HƯƠNG

THƯƠNG HIỆU CÁ NHÂN

Vị quê nhà

Về quê

Nghĩa trang liệt sĩ người Trung Quốc ở Việt Nam: hình ảnh cho một dân tộc sống nhân nghĩa

GIÁO DỤC VIỆT NAM KHI TRƯỜNG "QUỐC TẾ" Ở VIỆT NAM